Vietnam Business Law

View Original

Khả năng áp dụng Luật Phòng, Chống Rửa Tiền (PCRT) của Việt Nam đối với các tổ chức tài chính nước ngoài

Theo Luật PCRT 2012, một chủ thể sẽ phải tuân thủ yêu cầu thực hiện quy trình Nhận Biết Khách Hàng (KYC) hoặc nộp các báo cáo về PCRT cho NHNN nếu chủ thể đó, bên cạnh các chủ thể khác, là một tổ chức tài chính “được cấp giấy phép” để thực hiện một hoặc một số dịch vụ hoặc hoạt động tài chính. Trong Luật PCRT 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành, không rõ thuật ngữ “được cấp giấy phép” ở trên dùng để chỉ các tổ chức tài chính được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp giấy phép, hay cũng bao gồm cả tổ chức tài chính nước ngoài được cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp giấy phép. Tuy nhiên, việc giải thích theo cách đầu tiên là hợp lý vì:

·         theo pháp luật Việt Nam, một tổ chức chỉ có thể cung cấp dịch vụ tài chính được quy định trong Luật PCRT 2012 tại Việt Nam nếu tổ chức đó có giấy phép từ một cơ quan có thẩm quyền phù hợp của Việt Nam (ví dụ: NHNN, Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước, Bộ Tài Chính);

·         không thực tế và không thể bắt buộc một tổ chức tài chính nước ngoài tuân thủ các yêu cầu về PCRT/ KYC của Việt Nam nếu tổ chức này không chịu sự quản lý của bất kỳ cơ quan có thẩm quyền nào của Việt Nam (đặc biệt là các nghĩa vụ báo cáo); và

·         Cách giải thích này cũng được hỗ trợ bởi “Báo Cáo Kết Quả Đánh Giá Rủi Ro Quốc Gia Về Rửa Tiền, Tài Trợ Khủng Bố Giai Đoạn 2012-2017 ” của NHNN, trong đó đánh giá rủi ro và sự tuân thủ pháp luật và các quy định về PCRT của các tổ chức tài chính và phi tài chính được cấp giấy phép hoạt động chỉ tại Việt Nam.

Theo đó, một tổ chức tài chính nước ngoài không nên bị buộc phải tuân thủ các yêu cầu về PCRT/ KYC của Việt Nam trừ khi được NHNN cấp giấy phép để thực hoạt động kinh doanh tại Việt Nam.

Bài viết được thực hiện bởi Hoàng Thị Thanh Thùy và do Nguyễn Quang Vũ biên tập.