Mã số doanh nghiệp (thay vì tên và địa chỉ) của nhà sản xuất, đơn vị nhập khẩu nên là nội dung ghi nhãn bắt buộc đối với hàng hóa lưu thông tại thị trường Việt Nam

Theo Luật Doanh Nghiệp 2020, mỗi công ty ở Việt Nam có một mã số doanh nghiệp duy nhất để phân biệt công ty đó với công ty khác. Nếu một người có mã số doanh nghiệp của một công ty, người đó có thể dễ dàng lấy được thông tin về tên và địa chỉ mới nhất của công ty đó từ Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Tương tự như vậy, quy định về nhãn hàng hóa nên để mã số doanh nghiệp của tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm về hàng hóa lưu thông tại thị trường Việt Nam (gọi chung là “đơn vị chịu trách nhiệm”) là một nội dung bắt buộc của nhãn hàng hóa.

Tuy nhiên, hiện nay, quy định về nhãn hàng hóa không yêu cầu phải ghi mã số doanh nghiệp của đơn vị chịu trách nhiệm vào nhãn hàng hóa lưu thông tại Việt Nam. Thay vào đó, theo Nghị Định 43/2017 về nhãn hàng hóa, nhãn hàng hóa lưu thông tại thị trường Việt Nam phải có tên, địa chỉ của đơn vị chịu trách nhiệm. Yêu cầu này có thể gây ra sự bất tiện đáng kể cho đơn vị chịu trách nhiệm, đặc biệt là những đơn vị trong lĩnh vực FMCG, khi họ thay đổi tên hoặc địa chỉ.

Nguyên nhân là do việc không khai đúng các thông tin trên nhãn hàng hóa theo quy định của pháp luật có thể dẫn đến (1) bị phạt tiền lên tới 60 triệu đồng và (2) có khả năng bị thu hồi hàng hóa có thông tin không chính xác để dán nhãn lại. Đối với các đơn vị chịu trách nhiệm, có hàng triệu mặt hàng lưu thông trên thị trường, việc thu hồi và dán nhãn lại sản phẩm của họ thực tế là không thể. Trên thực tế, các đơn vị chịu trách nhiệm này phải quản lý tốt thời gian thay đổi tên và địa chỉ để đảm bảo có đủ số lượng nhãn còn lại tối thiểu, và nếu có thể, cả hàng tồn kho trước khi sửa đổi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp để thay đổi tên hoặc địa chỉ mới. Ngoài ra, nhà sản xuất hoặc đơn vị nhập khẩu có liên quan có thể cần phải thành lập đơn vị chịu trách nhiệm mà tên và địa chỉ của đơn vị đó có ít khả năng có thể bị thay đổi trong tương lai.

Bài này được thực hiện bởi Nguyễn Quang Vũ với sự hỗ trợ nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Dương.