Giải Quyết Yêu Cầu Dân Sự Trong Tố Tụng Hình Sự Tại Việt Nam

Trong tố tụng hình sự tại Việt Nam, yêu cầu dân sự (ví dụ, yêu cầu bồi thường thiệt hại, khôi phục tài sản bị hư hại) thường phát sinh kèm với trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015 nêu ra vai trò của“nguyên đơn dân sự” và “bị đơn dân sự” nhằm tạo điều kiện cho việc giải quyết các yêu cầu dân sự trong tố tụng hình sự tại Việt Nam. Tuy nhiên, ngoài việc quy định về vai trò nêu trên, Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015 thiếu quy định chi tiết về trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu dân sự trong tố tụng hình sự. Khoảng trống pháp lý này, cùng với thực tiễn xét xử không thống nhất, khiến việc giải quyết yêu cầu dân sự trong vụ án hình sự trở nên đặc biệt phức tạp và đầy thách thức. Bài viết này sẽ phân tích những khó khăn chính trong quá trình giải quyết yêu cầu dân sự trong tố tụng hình sự.

  • Thiếu quy trình thủ tục rõ ràng – Điều 30 của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015 quy định các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự sẽ được giải quyết trong quá trình xét xử vụ án hình sự. Tuy nhiên, Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015 không đưa ra hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu dân sự trong tố tụng hình sự. Hiện chưa rõ ràng về việc áp dụng quy định thủ tục tố tụng nào – liệu toà án hình sự nên tuân theo quy trình tố tụng của riêng mình hay áp dụng thủ tục được quy định trong Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự 2015 để giải quyết yêu cầu dân sự trong tố tụng hình sự. Sự không rõ ràng này dẫn đến tình trạng áp dụng pháp luật thiếu thống nhất và gây ra sự lúng túng trong thực tiễn tố tụng.

  • Phạm vi của yêu cầu dân sự – Điều 64.1 của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015 định nghĩa bị đơn dân sự là “cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại”. Từ định nghĩa về bị đơn dân sự, yêu cầu dân sự trong tố tụng hình sự chỉ liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại. Chưa rõ liệu các vấn đề khác như quyền sở hữu tài sản hoặc hoàn trả lại tài sản bất hợp pháp có thể được bao gồm trong yêu cầu dân sự trong tố tụng hình sự hay không. Ngoài ra, tòa án có thể xác định một cá nhân đưa ra hoặc liên quan đến một yêu cầu về vấn đề dân sự mà không phải bồi thường thiệt hại ở vị trí tố tụng khác (ví dụ:'người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) trong quá trình giải quyết vụ án.

  • Thiếu sự rõ ràng về phạm vi và thủ tục bồi thường – Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015 không quy định hướng dẫn cụ thể về cách xác định trách nhiệm bồi thường hoặc phương pháp tính toán thiệt hại. Hiện vẫn chưa rõ thiệt hại được đề cập bao gồm “tổn thất trực tiếp” hay “tổn thất gián tiếp”, hoặc các vấn đề  được điều chỉnh bởi Bộ Luật Dân Sự 2015 hay theo một văn bản pháp luật khác.

  • Không có quy định thủ tục về cách tương tác với nguyên đơn dân sự – Khác với Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự 2015, Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015 thiếu quy định cơ chế tố tụng điều chỉnh vấn đề tương tác giữa nguyên đơn dân sự và bị đơn dân sự. Ví dụ, không có quy định về thủ tục hòa giải giữa bị đơn dân sự và nguyên đơndân sự, không có thủ tục chính thức về việc nộp đơn yêu cầu  (ví dụ, không quy định thời hạn nộp đơn hoặc nội dung đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại). Do đó, bị đơn dân sự có thể không được thông báo về danh tính hoặc nội dung đơn yêu cầu của nguyên đơn.

·         Không có quyền rõ ràng để nộp đơn phản tố – Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015 không cho phép bị đơn dân sự được đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn dân sự một cách rõ ràng. Theo quy định tại Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự 2015, bị đơn dân sự có quyền phản tố đối với nguyên đơn dân sự. Mặc dù Điều 64.2.(c) của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015 cho phép nguyên đơn dân sự "đưa ra yêu cầu", nhưng chưa rõ liệu khái niệm "yêu cầu" này có bao gồm cả yêu cầu phản tố hay không, và liệu Tòa án có xem xét các yêu cầu như vậy hay không. Sự không rõ ràng này đặt bị đơn dân sự vào thế bất lợi, đặc biệt trong trường hợp họ cần phản bác về trách nhiệm của nguyên đơn dân sự.

·         Thiếu cơ chế đối đáptrực tiếp với nguyên đơn dân sự – Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015 không trao cho bị đơn dân sự quyền đối đáp trực tiếp với nguyên đơn dân sự, trong khi quyền này được công nhận theo Điều 261 của Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự 2015. Thay vào đó, Điều 322 của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015 chỉ cho phép bị đơn dân sự đối đáp với Viện kiểm sát, với vai trò là cơ quan tố tụng. Cơ chế này tạo ra sự mất cân bằng: nguyên đơn dân sự có thể được hỗ trợ từ Viện kiểm sát (ví dụ, thông qua các lập luận pháp lý do Viện kiểm sát đưa ra đại diện cho nguyên đơn), trong khi bị đơn dân sự phải đối chất với một cơ quan nhà nước – điều này làm giảm đáng kể khả năng đạt được phán quyết có lợi.

·         Khả năng tách biệt yêu cầu dân sự khỏi vụ án hình sự vẫn chưa rõ ràng – Điều 30 của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015 quy định các vấn đề dân sự liên quan đến bồi thường thiệt hại hoặc bồi hoàn có thể được giải quyết riêng biệt theo thủ tục tố tụng dân sự nếu không đủ chứng cứ và việc tách riêng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, việc xác định một vấn đề dân sự có đủ tính độc lập so với vụ án hình sự hay không là điều khó khăn (ví dụ, thiệt hại được nguyên đơn dân sự yêu cầu có thể là căn cứ để xác lập trách nhiệm hình sự của bị cáo). Do đó, quyền của bị đơn dân sự trong việc yêu cầu tách riêng yêu cầu dân sự thành một vụ án độc lập là rất khó thực hiện trong thực tiễn.

·         Sự chậm trễ và kém hiệu quả về thủ tục – Việc giải quyết yêu cầu dân sự trong quá trình tố tụng hình sự thường dẫn đến tình trạng kéo dài tiến trình xét xử – đặc biệt trong các trường hợp tòa án gặp khó khăn trong việc thu thập đầy đủ chứng cứ cho phần yêu cầu dân sự. Những chậm trễ này làm gia tăng cả thời gian và chi phí tố tụng cho các bên đương sự.

·         Quyền tiếp cận đối với hồ sơ vụ án và chứng cứ bị hạn chế – Không giống như bị cáo trong vụ án hình sự, bị đơn dân sự có thể không được đảm bảo đầy đủ quyền tiếp cận toàn bộ hồ sơ vụ án hình sự hoặc các chứng cứ do nguyên đơn dân sự cung cấp. Sự thiếu bảo đảm về thủ tục này đặt bị đơn dân sự vào thế bất lợi khi tranh luận về đơn yêu cầu.

Bài viết này được thực hiện bởi Trịnh Phương Thảo và Nguyễn Quang Vũ.