BẢO VỆ THÔNG TIN KHÁCH HÀNG TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG CỦA VIỆT NAM

Vào tháng 9 năm 2018, Chính phủ đã ban hành Nghị Định 117/2018 về bảo vệ thông tin khách hàng trong lĩnh vực ngân hàng thay thế cho Nghị định 70/2000. Nghị Định 117/2018 áp dụng cho việc bảo mật, lưu trữ và cung cấp thông tin của các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài (gọi chung là TCTD) liên quan đến tiền gửi và tài sản của khách hàng với TCTD. Nghị Định đưa ra các điểm đáng chú ý sau đây:

·         Nghị Định 117/2018 không áp dụng đối với, bao gồm nhưng không giới hạn, thông tin được xác định là bí mật nhà nước và được điều chỉnh bởi các quy định về bí mật Nhà nước. Theo Quyết Định 151/2003 cũ của Bộ Công An, thông tin về tiền gửi của khách hàng với một TCTD được phân loại là “bí mật Nhà Nước” ở cấp độ bí mật. Không rõ liệu việc phân loại này có còn hiệu lực bởi vì Quyết Định 45/2007 của Ngân hàng Nhà nước, văn bản được căn cứ theo Quyết Định 151/2003, không liệt kê thông tin tiền gửi của khách hàng là bí mật Nhà Nước. Nghị Định 117/2018 không làm rõ điều này;

·         Thông tin khách hàng của TCTD chỉ có thể được cung cấp mà không có sự đồng ý của khách hàng nếu bên yêu cầu có quyền yêu cầu TCTD cung cấp thông tin khách hàng theo các quy định cụ thể của pháp luật hoặc nghị quyết của Quốc hội. Việc dẫn chiếu đến luật và nghị quyết của Quốc hội có thể có nghĩa là Chính Phủ hoặc các Bộ không thể ban hành các quy định cho phép TCTD được tiết lộ thông tin khách hàng một cách bất hợp lý. Tuy nhiên, không rõ quy định này sẽ được thi hành như thế nào bởi lẽ bản thân Nghị Định 117/2018 không phải là luật của Quốc Hội;

·         TCTD không được phép cung cấp thông tin xác thực của khách hàng (mật mã bí, dữ liệu sinh trắc học, mật khẩu truy cập và thông tin xác thực khách hàng khác) cho bất kỳ bên thứ ba nào mà không có sự đồng ý hoặc hình thức thỏa thuận khác với khách hàng đó. Điều này có vẻ như nếu khách hàng đồng ý cho TCTD cung cấp thông tin xác thực của mình trong một điều khoản và điều kiện chung, TCTD có thể được phép tiết lộ thông tin đó;

·         Bên thứ ba chỉ có thể yêu cầu TCTD cung cấp thông tin khách hàng theo đúng mục đích, nội dung, phạm vi hoặc thẩm quyền được quy định hoặc theo sự đồng ý của khách hàng và bên thứ ba đó phải chịu trách nhiệm về yêu cầu này. Bên thứ ba phải giữ bí mật thông tin khách hàng được cung cấp, sử dụng thông tin đó theo mục đích mà bên thứ ba đó yêu cầu cung cấp và không được phép cung cấp thông tin đó cho bên khác mà không có sự đồng ý của khách hàng, trừ khi được pháp luật quy định ; và

·         Việc yêu cầu cung cấp thông tin khách hàng từ TCTD phải có tài liệu hỗ trợ trừ khi yêu cầu đó liên quan đến thủ tục tố tụng hình sự hoặc an ninh quốc gia.

Bài viết này được đóng góp bởi Nguyễn Hoàng Duy, luật sư cộng sự tại Venture North Law.