Quy định mới về thuế thu nhập từ chuyển nhượng vốn của Việt Nam dành cho doanh nghiệp nước ngoài
Ngày 14 tháng 6 năm 2025, Quốc Hội đã thông qua Luật Thuế Thu Nhập Doanh Nghiệp sửa đổi năm 2025 (Luật Thuế TNDN 2025). Cùng với những nội dung khác, luật này được kỳ vọng sẽ mang lại những thay đổi đáng kể trong việc xác định phương pháp tính thuế đối với các giao dịch chuyển nhượng vốn và chuyển nhượng chứng khoán (Thuế TNDN Chuyển Nhượng Vốn) của các công ty nước ngoài. Bài viết này nhằm mục đích cung cấp một cái nhìn tổng quan toàn diện và rõ ràng bằng cách phân tích và so sánh các quy định mới này với các quy định tại Luật Thuế Thu Nhập Doanh Nghiệp 2008 (Luật Thuế TNDN 2008).
1) Định nghĩa về thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam đối với doanh nghiệp nước ngoài
Một nội dung điều chỉnh quan trọng trong Luật Thuế TNDN 2025 liên quan đến việc định nghĩa về thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam đối với các công ty nước ngoài, giúp định nghĩa này minh bạch hơn.
Theo Luật Thuế TNDN 2008, định nghĩa cụ thể về loại thu nhập này không được làm rõ trong luật mà được quy định chi tiết tại Nghị Định 218/2013 hướng dẫn thi hành Luật Thuế TNDN 2008. Ngược lại, Luật Thuế TNDN 2025 đã trực tiếp đưa định nghĩa này vào, nêu rõ rằng thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam của doanh nghiệp nước ngoài là thu nhập có nguồn gốc từ Việt Nam, không phụ thuộc vào địa điểm tiến hành kinh doanh.
2) Làm rõ việc chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần chưa đại chúng là chuyển nhượng vốn
Luật Thuế TNDN 2008 và các văn bản hướng dẫn không làm rõ việc chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần chưa đại chúng là chuyển nhượng vốn hay chuyển nhượng chứng khoán. Mặc dù có thể suy luận một cách hợp lý từ Thông tư 78/2014 rằng việc chuyển nhượng cổ phần đó được coi là chuyển nhượng chứng khoán, nhưng trên thực tế, cơ quan thuế đã có các quan điểm khác nhau về vấn đề này và việc chuyển nhượng cổ phần đó cũng có thể được phân loại là chuyển nhượng vốn.
Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật Thuế TNDN 2025 (Dự Thảo Nghị Định) hiện đã làm rõ việc chuyển nhượng vốn bao gồm chuyển nhượng cổ phần của công ty không phải là công ty đại chúng (Điều 12.1), chuyển nhượng chứng khoán bao gồm chuyển nhượng chứng khoán của công ty đại chúng (Điều 13.1).
3) Phương pháp tính Thuế TNDN Chuyển Nhượng Vốn
Một thay đổi đáng chú ý được Luật Thuế TNDN 2025 đưa ra là phương pháp tính Thuế TNDN Chuyển Nhượng Vốn đối với doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là đối với các giao dịch chuyển nhượng vốn gián tiếp. Bảng dưới đây minh họa sự khác biệt giữa Luật Thuế TNDN 2008 và Luật Thuế TNDN 2025:
Chuyển nhượng chứng khoán
Chuyển nhượng vốn
Chuyển nhượng trực tiếp (chuyển nhượng vốn trong công ty trong nước)
Luật Thuế TNDN 2008
0,1% trên doanh thu
20% trên thu nhập chịu thuế
(*) Thu nhập chịu thuế = Giá chuyển nhượng - Giá mua - Chi phí chuyển nhượng
Luật Thuế TNDN 2025
0,1% trên doanh thu
(*) Mức thuế suất dự kiến theo Dự Thảo Nghị Định
% trên doanh thu. Hiện chưa có mức thuế suất cụ thể.
(*) Dự Thảo Nghị Định chỉ quy định mức thuế suất áp dụng đối với giao dịch “chuyển nhượng vốn mà chủ sở hữu không trực tiếp điều hành các hoạt động của doanh nghiệp tại Việt Nam”. Mức thuế suất này có thể hiểu là chỉ áp dụng riêng cho giao dịch chuyển nhượng vốn gián tiếp tại cấp công ty mẹ.
Chuyển nhượng gián tiếp (chuyển nhượng vốn trong một doanh nghiệp nước ngoài nắm giữ vốn trong một công ty con tại Việt Nam)
Luật Thuế TNDN 2008
Không được cung cấp. Trên thực tế, các giao dịch này thường bị áp thuế tương tự như chuyển nhượng trực tiếp.
Luật Thuế TNDN 2025
0,1% trên doanh thu
(*) Mức thuế suất dự kiến theo Dự Thảo Nghị Định
2% trên doanh thu.
(*) Mức thuế suất dự kiến theo Dự Thảo Nghị Định. “Chuyển nhượng vốn mà chủ sở hữu không trực tiếp điều hành các hoạt động của doanh nghiệp tại Việt Nam” có thể được hiểu là bao gồm tất cả các giao dịch chuyển nhượng tại các công ty mẹ nằm ở các tầng phía trên của công ty con tại Việt Nam.
Như có thể thấy từ bảng trên, theo Luật Thuế TNDN 2025, cả chuyển nhượng trực tiếp và gián tiếp đều được tính thuế theo phương pháp tỷ lệ phần trăm (%)trên doanh thu phát sinh tại Việt Nam. Lý do được Bộ Tài chính (BTC) đưa ra là “thực tế đa số các tổ chức nước ngoài khi chuyển nhượng vốn cho bên nước ngoài kê khai giá chuyển nhượng bằng giá vốn, trong khi đó tại Việt Nam lại chưa có đủ cơ sở để kiểm chứng tính chính xác giá chuyển nhượng thực tế và các chi phí thực tế liên quan đến hoạt động góp vốn và chuyển nhượng vốn”.
Quy định mới này mang lại lợi thế là làm rõ phương pháp tính Thuế TNDN Chuyển Nhượng Vốn đối với các giao dịch chuyển nhượng gián tiếp, vốn trước đây vẫn còn là một phạm vi chưa rõ ràng, qua đó thúc đẩy tính minh bạch hơn trong quản lý thuế. Tuy nhiên, một hạn chế đáng kể của phương pháp mới này là nó chỉ dựa trên doanh thu mà không xem xét liệu việc chuyển nhượng có dẫn đến lỗ hay lãi. Điều này ngụ ý rằng ngay cả khi việc chuyển nhượng dẫn đến lỗ hoặc được thực hiện với giá bằng vốn (lãi bằng 0), bên chuyển nhượng vẫn phải chịu thuế.
4) Sự không rõ ràng về việc áp dụng các quy định về thuế TNDN đối với chuyển nhượng vốn có gắn với bất động sản đối với các công ty nước ngoài
Trước đây, Điều 14.1 Thông tư 78/2014 về thu nhập từ chuyển nhượng vốn quy định doanh nghiệp chuyển nhượng toàn bộ vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, nếu việc chuyển nhượng “có gắn với bất động sản”, phải kê khai và nộp thuế TNDN theo hoạt động chuyển nhượng bất động sản. Thuế TNDN đối với chuyển nhượng bất động sản được tính bằng 20% thu nhập chịu thuế (được xác định dựa trên doanh thu, giá vốn, các khoản lỗ và chi phí được trừ liên quan). Tuy nhiên, hai điểm vẫn còn chưa rõ: (i) thế nào là “chuyển nhượng vốn có gắn với bất động sản,” và (ii) liệu các quy định này có áp dụng cho việc chuyển nhượng vốn của các công ty nước ngoài hay không.
Điều 12.1 của Dự Thảo Nghị Định vẫn giữ nguyên quy định tương tự mà không làm rõ thuật ngữ “chuyển nhượng vốn có gắn với bất động sản”. Tuy nhiên, Dự Thảo Nghị Định bổ sung thêm rằng “ quy định này không áp dụng đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 11 ”. Quy định mới này càng làm tăng thêm sự không rõ ràng.
Một mặt, có thể hiểu là quy định về chuyển nhượng vốn có gắn với bất động sản không áp dụng đối với doanh nghiệp nước ngoài vì Điều 11.2 quy định rằng số thuế TNDN phải nộp đối với doanh nghiệp nước ngoài quy định tại Điều 2.2(c) và Điều 2.2(d) Luật TNDN 2025 được tính theo tỷ lệ phần trăm trên doanh thu.
Mặt khác, cách diễn đạt của Điều 12.1 có thể được hiểu là chỉ loại trừ một số trường hợp được liệt kê trong Điều 11.2. Một trường hợp được liệt kê như vậy là “chuyển nhượng vốn mà chủ sở hữu không trực tiếp điều hành các hoạt động của doanh nghiệp tại Việt Nam”. Nếu áp dụng cách hiểu này, việc một công ty nước ngoài chuyển nhượng trực tiếp toàn bộ vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên trong nước có gắn với bất động sản vẫn buộc công ty nước ngoài chuyển nhượng đó phải kê khai và nộp thuế dựa trên các quy định thuế TNDN đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản. Tuy nhiên, điều này sẽ đi ngược lại nguyên tắc của Luật Thuế TNDN 2025. Luật quy định rằng thuế TNDN phải nộp đối với các doanh nghiệp nước ngoài tại Điều 2.2(c) và 2.2(d) của Luật Thuế TNDN 2025 được tính theo tỷ lệ phần trăm trên “doanh thu”, mà không tính đến các khoản lỗ hoặc chi phí.
Bài viết này được viết bởi Nguyễn Thục Anh với góp ý của Hà Thanh Phúc và Nguyễn Quang Vũ.