Một Vài Hạn Chế Của Nghị Quyết 222 Về Trung Tâm Tài Chính Quốc Tế Tại Việt Nam
Ngày 27 tháng 6 năm 2025, đánh dấu bước đi nền tảng để thiết lập một trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam, Quốc Hội Việt Nam đã thông qua Nghị quyết số 222 về Trung tâm tài chính quốc tế (TTTCQT) tại Việt Nam (cụ thể là tại Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng) (Nghị Quyết 222). Tuy nhiên, khi so sánh với những tập quán tốt nhất trên thế giới, Nghị Quyết này bộc lộ nhiều điểm yếu có thể làm nản lòng các nhà đầu tư quốc tế.
Bằng cách phân tích so sánh, dưới đây là một số hạn chế của Nghị Quyết này:
· Sự tách biệt với thị trường nội địa của Việt Nam – Có lẽ lợi ích lớn nhất của việc đầu tư vào một TTTCQT tại Việt Nam là cơ hội tiếp cận thị trường vốn và tài chính nội địa. Đáng tiếc, Nghị Quyết 222 lại không quy định cụ thể cách thức để một thành viên TTTCQT đầu tư hoặc tương tác với thị trường vốn và tài chính nội địa của Việt Nam. Với việc thiếu vắng cơ chế tiếp cận thị trường nội địa, Việt Nam sẽ khó lòng thu hút được các nhà đầu tư của các trung tâm tài chính trong khu vực chuyển đến TTTCQT tại Việt Nam.
· Khung pháp lý thiếu ổn định và khó dự đoán: Nghị Quyết 222 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 09 năm 2025. Sau năm năm, cơ chế pháp lý được ban hành trong Nghị Quyết 222 sẽ được rà soát bởi Quốc Hội, và có thể bị thay thế bởi Luật Về Trung Tâm Tài Chính Quốc Tế. Những dự án hiện hữu có thể tiếp tục hoạt động dưới khuôn khổ pháp lý “hiện hành” tại thời điểm đó. Với yêu cầu về các văn bản hướng dẫn và yêu cầu về cơ sở hạ tầng, có thể mất một hoặc hai năm để TTTCQT thiết lập và đi vào hoạt động. Theo đó, các nhà đầu tư có thể chỉ có khoảng ba đến bốn năm thực sự vận hành doanh nghiệp của mình trước khi luật mới có khả năng sẽ được ban hành. Trong quá trình hoạt động của TTTCQT, văn bản quy phạm pháp luật có thể được ban hành để hạn chế các quyền lợi của thành viên TTTCQT nhằm đảm bảo “lợi ích quốc gia” và “ngăn chặn các yếu tố có thể đe dọa an ninh quốc gia”. Quy định này rất rộng và mơ hồ, và có thể cho phép các cơ quan quản lý TTTCQT thay đổi quy định bất cứ lúc nào.
· Cơ cấu quản lý phức tạp và chồng chéo: Thay vì một cơ quan quản lý “một cửa” tinh gọn, Nghị Quyết thiết lập một mô hình quản lý đa ngành, bao gồm: một Cơ Quan Điều Hành, một Cơ Quan Giám Sát và một cơ quan giải quyết tranh chấp riêng biệt. Đặc biệt, việc cấp phép cho các lĩnh vực chủ chốt như bảo hiểm và chứng khoán vẫn thuộc về Bộ Tài chính và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, điều này tạo ra sự chồng chéo và làm suy yếu cam kết về đơn giản hóa thủ tục hành chính.
· Quá phụ thuộc vào các văn bản hướng dẫn: Nhiều chi tiết quan trọng liên quan đến hoạt động của TTTCQT, các ngành nghề ưu tiên, tiêu chí hưởng ưu đãi, ngoại hối, và các quy định về ngân hàng, nhập cảnh và lao động, và các cơ chế đầu tư đều được giao hướng dẫn bởi Nghị định của Chính phủ. Điều này tạo ra sự không chắc chắn và trì hoãn đáng kể cho các nhà đầu tư vì họ cần một hệ thống pháp lý hoàn thiện và có thể dự đoán được để có đủ thông tin trước khi đưa ra quyết định đầu tư.
· Thiếu đột phá cho thị trường vốn: Một thiếu sót lớn là sự thiếu vắng quy định riêng biệt và chuyên dụng cho việc vận hành một sàn giao dịch chứng khoán trong TTTCQT. Một đặc điểm chính của các TTTCQT hàng đầu là có một sàn giao dịch chứng khoán nơi chứng khoán có thể được niêm yết và giao dịch bằng ngoại tệ, dành riêng cho các nhà đầu tư quốc tế và các thành viên của TTTCQT. Việc Nghị Quyết tập trung vào các thị trường ngách như tài chính xanh hay crypto có thể là không đủ để xây dựng một trung tâm tài chính lớn.
· Không có các biện pháp thuận lợi cho các khoản vay từ TTTCQT vào thị trường Việt Nam: Nghị Quyết không đưa ra cơ chế đặc biệt cho các khoản vay từ TTTCQT vào thị trường nội địa Việt Nam. Có vẻ các khoản vay này được coi là khoản vay nước ngoài thông thường, chịu sự điều chỉnh của các quy định hiện hành. Theo đó, không có ưu đãi sẵn có nào để các bên cho vay nước ngoài hiện đang hoạt động tại các trung tâm tài chính khu vực như Hồng Kông hay Singapore cân nhắc việc chuyển đến TTTCQT tại Việt Nam. Ngoài ra, điều này bỏ lỡ cơ hội tạo ra một cơ chế ưu đãi nhằm khuyến khích các doanh nghiệp trong nước huy động vốn thông qua TTTCQT, từ đó thúc đẩy hoạt động và sự hội nhập của trung tâm này với nền kinh tế nội địa.
· Khung pháp lý giải quyết tranh chấp chưa đầy đủ: Khung pháp lý đang thiếu chắc chắn về mặt pháp lý. Một điều khoản không rõ ràng quy định việc ngăn cấm bất kỳ thứ gì “trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” đã hạn chế khả năng áp dụng luật nước ngoài. Nghị Quyết cũng không quy định về việc công nhận tự động các phán quyết từ các tòa án nước ngoài có uy tín, và đồng thời hạn chế các lựa chọn trọng tài quốc tế, việc này làm suy yếu niềm tin của nhà đầu tư vào các biện pháp tố tụng.
· Vai trò không rõ ràng của nhà đầu tư chiến lược: Vai trò của nhà đầu tư chiến lược dường như đã bị hạ cấp từ một nhà phát triển tổng thể của toàn bộ khu phức hợp TTTCQT xuống chỉ còn là những “khách thuê mỏ neo”. Điều này có thể dẫn đến việc thiếu tầm nhìn gắn kết và phát triển cơ sở hạ tầng manh mún, vì không có một tổ chức duy nhất chịu trách nhiệm cho sự thành công chung của dự án.
· Định nghĩa và địa vị pháp lý của “thành viên TTTCQT” không rõ ràng: Nghị Quyết đưa ra thuật ngữ “thành viên TTTCQT” nhưng không quy định rõ địa vị pháp lý. Không rõ rằng thành viên TTTCQT được coi là doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp hay Luật Đầu tư. Sự không rõ ràng này tạo ra các câu hỏi về quản trị doanh nghiệp, trách nhiệm pháp lý và các thủ tục hoạt động. Ví dụ, không rõ một công ty mẹ do một Thành viên TTTCQT thành lập sẽ có trụ sở ở đâu và liệu nó có được hưởng tư cách thành viên TTTCQT hay không. Trong trường hợp một ngân hàng thương mại đăng ký làm thành viên TTTCQT, cơ quan có thẩm quyền chấp nhận việc đăng ký này không rõ ràng và phụ thuộc vào các quy định hướng dẫn sau này.
· Thiếu vắng cơ chế phòng chống rửa tiền trong TTTCQT: Nên có các quy định rõ ràng về phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt cho phù hợp với các quy định và tập quán quốc tế. Song song với đó, cần nghiên cứu để có quy định về các trường hợp miễn trừ và ngoại lệ cho các quốc gia hoặc tổ chức có rủi ro thấp.
· Ưu đãi thuế thiếu cạnh tranh và ngắn hạn: Các ưu đãi thuế được đề xuất thậm chí còn kém hấp dẫn so với một số khu kinh tế tại Việt Nam. Một bất cập lớn là việc miễn trừ thuế thu nhập cá nhân cho các chuyên gia và nhà quản trị nước ngoài sẽ chấm dứt vào cuối năm 2030. Các ưu đãi ngắn hạn như vậy là một yếu tố cản trở lớn trong dài hạn đối với việc thu hút và giữ chân nhân tài toàn cầu – một yếu tố cần có để xây dựng một TTTCQT thành công.
Mặc dù Nghị Quyết 222 đã cung cấp một khuôn khổ cơ bản, sự thành công của TTTCQT phụ thuộc vào khả năng của Chính Phủ trong việc giải quyết những thiếu sót trên trong các nghị định hướng dẫn thi hành. Để thực sự cạnh tranh, các quy định chi tiết phải minh bạch, có thể dự đoán được và đủ hấp dẫn để cộng đồng tài chính toàn cầu tin rằng Việt Nam là một điểm đến đầu tư nghiêm túc và an toàn.
Bài viết này được viết bởi Hà Kiều Anh và Nguyễn Quang Vũ.
Một báo cáo "Nghiên cứu chuyên sâu" bằng AI của Gemini 2.5 về Nghị Quyết 222 có thể được tìm thấy tại đây.