Tư cách pháp lý không rõ ràng của chi nhánh công ty tại Việt Nam

Theo Điều 84.2 Bộ Luật Dân Sự 2015, chi nhánh của pháp nhân có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của pháp nhân đó. Tuy nhiên, Bộ Luật Dân Sự 2015 không cho phép chi nhánh hoạt động với tư cách đại diện theo ủy quyền của pháp nhân. Do đó, không rõ chi nhánh sẽ thực hiện chức năng của pháp nhân với tư cách nào.

Về mặt logic, để chi nhánh thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của pháp nhân thì có thể cân nhắc hai cách tiếp cận sau đây:

Ủy Quyền Mở Và Sử Dụng Tài Khoản Ngân Hàng Của Văn Phòng Đại Diện

Mặc dù trên thực tế, Trưởng Văn Phòng Đại Diện (VPĐD) thường thay mặt cho VPĐD để mở và sử dụng tài khoản ngân hàng của VPĐD, nhưng cũng có những trường hợp công ty mẹ muốn ủy quyền cho người khác (Người Được Uỷ Quyền) để thực hiện các công việc này. Câu hỏi đặt ra là việc ủy quyền như vậy có hợp pháp không và liệu xác nhận của Trưởng VPĐD đối với giấy ủy quyền đó (POA) có cần thiết hay không.

Câu trả lời ngắn gọn: Bên ủy quyền cho Người Được Ủy Quyền nên là VPĐD thay vì công ty mẹ. Nếu bên ủy quyền là công ty mẹ thì việc ủy quyền đó nên được Trưởng VPĐD với tư cách là “người đại diện theo pháp luật” của VPĐD xác nhận. Sự xác nhận này sẽ đóng vai trò như một ủy quyền đồng thời bởi VPĐD.

Tư Cách Chủ Nợ Có Bảo Đảm Một Phần Theo Luật Phá Sản 2014

Theo Luật Phá Sản 2014, các chủ nợ của doanh nghiệp phá sản bao gồm chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ có bảo đảm. Mặc dù không hoàn toàn rõ ràng, chủ nợ có bảo đảm một phần có thể được coi là một nhóm chủ nợ riêng biệt và có các quyền riêng trong thủ tục phá sản.

Theo Luật Phá Sản 2014,

·         chủ nợ có bảo đảm là chủ nợ có quyền yêu cầu doanh nghiệp phá sản có liên quan phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp hoặc của người thứ ba; và

Hiệu Lực của Đơn Từ Chức HĐQT trong Công Ty Cổ Phần tại Việt Nam

Từ tháng 1 năm 2021, theo Luật Doanh Nghiệp 2020, nếu một thành viên Hội Đồng Quản Trị (HĐQT) nộp đơn xin từ chức thành viên HĐQT công ty cổ phần (CTCP), người đó không được thôi làm thành viên HĐQT cho đến khi được chấp thuận bởi Đại Hội Đồng Cổ Đông (ĐHĐCĐ) của CTCP có liên quan. Để hạn chế các vấn đề tiềm ẩn có thể phát sinh từ quy định này, một CTCP có thể xem xét quy định rằng ĐHĐCĐ phải miễn nhiệm một thành viên HĐQT khi người đó nộp đơn xin từ chức. Ngoài ra, thành viên HĐQT từ chức nên ủy quyền cho một người khác thích hợp cho đến khi thành viên đó chính thức bị miễn nhiệm.