Tính thuế đối với một dự án nhà máy nhiệt điện than độc lập (IPP) ở Việt Nam

Phương thức xác định giá hợp đồng mua bán điện (HĐMB Điện) được quy định tại Thông Tư 56 của Bộ Công Thương (BCT) ngày 19 tháng 12 năm 2014, như được sửa đổi, bổ sung (Thông Tư 56/2014). Thông Tư 56/2014 sẽ điều chỉnh HĐMB Điện của (i) nhà máy điện không phải là nhà máy thủy điện chiến lược đa mục tiêu, nhà máy điện BOT độc lập, nhà máy điện sử dụng năng lượng tái tạo và (ii) các nhà máy chưa có cơ chế riêng do BCT ban hành.

Đơn giá nói chung bao gồm các thành phần sau:

Đơn Giá = Giá Cố Định + Giá VH&BD Cố Định + Giá Nhiên Liệu + Giá Vận Chuyển Nhiên Liệu Chính

Trong đó:

·         Giá Cố Định là một số cố định được xác định trước cho toàn bộ quá trình thực hiện của dự án. Giá cố định được tính toán sao cho tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (internal rate of return) của dự án nhà máy điện sẽ không vượt quá tỷ lệ quy định (tức là 10% hoặc 12% tùy thuộc vào từng trường hợp).                        

·         Giá VH&BD Cố Định là giá vận hành và bảo dưỡng cố định, là tổng giá của (i) giá cố định cho chi phí sửa chữa lớn, chi phí thiết bị và dịch vụ; và (ii) giá cố định cho chi phí nhân công. Thay đổi do lạm phát sẽ được phản ánh trong việc tính toán giá điện. Tuy nhiên, thay đổi này được giới hạn ở mức 2,5% mỗi năm, thấp hơn tỷ lệ lạm phát hàng năm thông thường ở Việt Nam.

·         Giá Nhiên Liệu là một số biến đổi, là tổng của thành phần giá than, thành phần giá nhiên liệu DO, thành phần giá đá vôi, thành phần giá khác (nếu có).

·         Giá Vận Chuyển Nhiên Liệu Chính là một số biến đổi tùy thuộc vào giá vận chuyển của năm hợp đồng (nếu có).

Đầu ra được sử dụng để tính mức trả tiền điện là khác nhau tùy thuộc vào việc nhà máy điện có tham gia vào Thị Trường Quốc Gia hay không. Cụ thể là:

·         Nếu nhà máy điện chưa tham gia vào Thị Trường Quốc Gia, thì đầu ra là sản lượng điện thực tế được bàn giao tại điểm giao nhận; và

·         Nếu nhà máy điện tham gia vào Thị Trường Quốc Gia, thì đầu ra là đầu ra theo kế hoạch cho một chu kỳ giao dịch. Số tiền này dường như nằm trong khoảng từ 60% sản lượng hàng năm theo kế hoạch (AGO) đến 95% sản lượng hàng năm theo kế hoạch. Theo đó, sản lượng hàng năm theo kế hoạch sẽ cung cấp một mức giới hạn bảo vệ bù đắp cho nhà máy điện. Tuy nhiên, do sản lượng hàng năm theo kế hoạch của nhà máy điện có thể được điều chỉnh bởi BCT, nên sản lượng của nhà máy điện tham gia vào Thị Trường Quốc Gia không phải là một con số đảm bảo.

Xem xét những điều trên, có một số vấn đề phát sinh từ phương pháp định giá HĐMB Điện:

·         Tỷ giá hối đoái không được phản ánh rõ ràng trong Đơn Giá. Mặc dù các bên tham gia HĐMB Điện được yêu cầu phải báo cáo tác động của biến động tỷ giá đến hoạt động của mình để BCT cân nhắc hàng năm, nhưng BCT không có nghĩa vụ phải thay đổi giá điện để phản ánh tác động đó;

·         EVN không bắt buộc phải mua bất kỳ mức điện tối thiểu nào; và

·         Tất cả các khoản thanh toán từ EVN cho nhà máy điện được tính dựa trên sản lượng thực tế hoặc theo hợp đồng của nhà máy điện, chứ không phải công suất của nhà máy điện.

Bài viết được chuẩn bị bởi Nguyễn Thu Giang và biên tập bởi Nguyễn Quang Vũ.