Sự bùng phát của virus corona – Định nghĩa về Sự Kiện Bất Khả Kháng theo Pháp Luật Việt Nam

Trong vài tháng qua, sự bùng phát do virus corona (Covid 19) đã ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe và mạng sống của hàng triệu người dân Việt Nam và hàng tỉ người trên toàn cầu. Dịch bệnh cũng gây ra tổn thất cho hoạt động thương mại của hàng trăm doanh nghiệp tại Việt Nam. Trước diễn biến này, các bên tham gia hợp đồng thương mại sẽ không tránh được việc phải cân nhắc đến việc họ có được miễn trừ nghĩa vụ dựa trên cơ sở bất khả kháng nếu họ không thể thực hiện hợp đồng vì sự bùng phát của virus corona.

Trong các bài đăng về vấn đề này, chúng tôi sẽ phân tích các quy định về bất khả kháng theo pháp luật Việt Nam và mối liên hệ với sự bùng phát virus corona. Bài viết đầu tiên sẽ nêu rõ khái niệm của sự kiện bất khả kháng theo quy định của pháp luật Việt Nam và liệu sự bùng phát do virus corona gây ra có được coi là sự kiện bất khả kháng hay không. Bài viết được thực hiện bởi Nguyễn Quang Vũ và Trần Thủy Tiên.

Tóm tắt nội dung

  • Về sơ bộ, theo quy định pháp luật Việt Nam, định nghĩa sự kiện bất khả kháng sẽ bao gồm ba yếu tố của một sự kiện bất khả kháng đó là khác quan, không thể lường trước được và không thể khắc phục. Tuy nhiên, việc sự bùng phát của virus corona có đáp ứng đủ cả ba yếu tố để cấu thành nên sự kiện bất khả kháng theo Bộ Luật Dân Sự 2015 là không rõ ràng.

  • Trong tiếng Việt, “khách quan” có nghĩa là (1) cái gì tồn tại ngoài ý thức con người, hoặc (2) cái gì căn cứ vào sự thực bên ngoài. Theo đó, sự kiện xảy ra do cố ý vẫn có thể được coi là một sự kiện xảy ra một cách khách quan.

Quy tắc xuất xứ đối với hàng hóa sản xuất tại thị trường Việt Nam

Trong những năm gần đây đã có rất nhiều trường hợp các nhà sản xuất hàng hóa sử dụng những thành phần nhập khẩu tại Việt Nam bị coi là đã vi phạm quy tắc xuất xứ khi sử dụng cụm từ “Made in Vietnam” (ví dụ Asanzo, KhaiSilk và Seven.am). Do đó, việc hiểu về các quy tắc xuất xứ áp dụng cho hàng hóa bán tại thị trường Việt Nam là cần thiết. Trong bài này, chúng tôi sẽ thảo luận về các quy tắc xuất xứ theo pháp luật nội địa Việt Nam và các quy tắc xuất xứ theo Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA).

Quy tắc xuất xứ áp dụng đối với hàng hóa xuất nhập khẩu giữa các nước ASEAN (bao gồm cả Việt Nam) (Hàng Hóa ASEAN) được quy định tại ATIGA. Trong khi đó, theo luật pháp Việt Nam, không có khung pháp lý để xác định nguồn gốc của hàng hóa được sản xuất và bán trong lãnh thổ Việt Nam (Hàng Nội Địa Việt Nam). Cụ thể, không rõ Hàng Nội Địa Việt Nam phải thỏa mãn những điều kiện hay tiêu chuẩn nào để có thể được dán nhãn “sản phẩm của Việt Nam”, “Made in Vietnam” hoặc tương tự.

Nghị Định 10/2020 và nền tảng đặt xe tại Việt Nam

Vào ngày 17 tháng 1 năm 2020, Chính Phủ đã ban hành một Nghị Định mới (Nghị Định 10/2020) để thay thế Nghị Định 86 ngày 10 tháng 9 năm 2014 (Nghị Định 86/2014) quy định về dịch vụ vận tải bằng xe ô tô. Nghị Định mới này đưa ra các quy định cập nhật để điều chỉnh các nền tảng đặt xe tại Việt Nam (hoặc ít nhất là phần của các nền tảng đó liên quan đến vận tải ô tô) đang ngày càng gia tăng về số lượng.

Trước đó, Công ty TNHH Grab (Grab VN) được Bộ Giao Thông Vận Tải cho phép hoạt động như một trung gian kết nối các đơn vị cung cấp dịch vụ vận tải ô tô và hành khách để cung cấp nền tảng đặt xe (cụ thể là GrabCar). Với Nghị Định 10/2020 mới, nếu Grab VN (và các chủ thể khác có hoạt động kinh doanh tương tự) trực tiếp điều hành phương tiện hoặc tài xế, hoặc quyết định giá vé vận chuyển, họ có thể sẽ được coi là kinh doanh vận tải bằng xe ô tô vì “kinh doanh vận tải bằng xe ô tô” được định nghĩa là việc thực hiện ít nhất một trong các công đoạn chính của hoạt động vận tải (trực tiếp điều hành phương tiện, lái xe hoặc giá cước vận tải) để vận chuyển hành khách, hàng hóa trên đường bộ nhằm mục đích sinh lợi.

Theo Nghị Định 10/2020, tùy thuộc vào việc triển khai cụ thể của từng nền tảng, các doanh nghiệp cung cấp nền tảng đặt xe ô tô (như Grab, Uber, Be) có thể được coi là một doanh nghiệp “kinh doanh vận tải hành khách bằng xe taxi” hoặc “kinh doanh vận tải hành khách theo hợp đồng không theo tuyến cố định” hoặc “cung cấp phần mềm ứng dụng hỗ trợ kết nối vận tải”. Điều này là do:

LUẬT PHÒNG CHỐNG TÁC HẠI CỦA RƯỢU, BIA 2019

Lần đầu tiên, Luật phòng chống tác hại của rượu, bia (Luật phòng chống rượu, bia 2019) được Quốc hội thông qua vào ngày 15 tháng 6 năm 2019. Luật phòng chống rượu, bia 2019 sẽ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020. Dưới đây là tóm tắt một số vấn đề chính của Luật này:

· Luật phòng chống rượu, bia 2019 cung cấp định nghĩa mới về rượu và bia; Theo đó, định nghĩa rượu trong Luật phòng chống rượu, bia 2019 rộng hơn định nghĩa trong Nghị định 105/2017 vào bao gồm cả nước trái cây lên men các loại có độ cồn dưới 5 độ;

· Hành vi điều khiển phương tiện giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn bị nghiêm cấm bất kể nồng độ cồn trong máu hoặc hơi thở là bao nhiêu;

· Hành vi khuyến mại trong hoạt động kinh doanh rượu, bia có độ cồn từ 15 độ trở lên bị nghiêm cấm. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng theo Nghị định 81/2018, hành vi khuyến mại rượu và bia bị nghiêm cấm bất kể độ cồn là bao nhiêu;