Tài xế Uber có thể được coi là người lao động theo pháp luật Việt Nam hay không?
Tòa án Vương quốc Anh gần đây đã phán quyết rằng một tài xế Uber là Người lao động của Uber theo luật lao động của Vương quốc Anh. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ xem xét việc liệu có thể đưa ra kết luận tương tự theo luật Việt Nam thông qua sử dụng lý lẽ của tòa án Vương quốc Anh. Theo Bộ Luật Lao Động 2019, người lao động là người làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động. Dựa trên định nghĩa về người lao động theo Bộ Luật Lao Động 2019, nhiều khả năng là tài xế Uber hoặc, do Uber đã rời Việt Nam, một tài xế “taxi công nghệ” tương tự có thể lập luận rằng họ là người lao động của chủ sở hữu nền tảng thay vì là một nhà thầu bên thứ ba bằng việc sử dụng các lập luận của tòa án Vương quốc Anh.
Bảng dưới đây đưa ra phân tích chi tiết hơn:
STT |
Quan điểm của Tòa án Vương quốc
Anh |
Lập luận tiềm năng của tài xế
taxi công nghệ Việt Nam |
1. |
Trường hợp
cuốc xe được đặt thông qua Ứng Dụng
Uber, Uber là người áp đặt giá cước.
Như vậy, Uber quy định mức mà tài xế Uber
được trả cho công việc họ làm. |
Một tài xế
taxi công nghệ có thể đưa ra lập luận
tương tự như tài xế Uber. Rõ ràng, đối
với công việc được thực hiện (tức
là cung cấp dịch vụ vận chuyển cho hành khách của
chủ sở hữu nền tảng), tài xế được
trả tiền phí cho chuyến đi (do chủ sở hữu
nền tảng xác định) sau khi trừ đi phí sử
dụng nền tảng, theo thỏa thuận giữa tài xế
và chủ sở hữu nền tảng. |
2. |
Các điều khoản
hợp đồng do Uber áp đặt và các tài xế Uber
không có tiếng nói trong các điều khoản được
áp dụng. |
Các điều khoản dịch vụ
giữa chủ sở hữu nền tảng và người
dùng tại Việt Nam do chủ sở hữu nền tảng
quyết định. Không có dấu hiệu nào cho thấy
tài xế taxi công nghệ có thể sửa đổi các
điều khoản như vậy. |
3. |
Sau khi đăng nhập, lựa chọn
của tài xế bị Uber hạn chế, tức là Uber sẽ
giám sát số lượng yêu cầu chuyến đi mà tài
xế hủy bỏ. Uber có thể thực hiện các
bước để phạt tài xế Uber nếu tài xế
đó từ chối quá nhiều cuốc xe, bao gồm cả
việc tự động đăng xuất họ khỏi
Ứng Dụng Uber. |
Một khi tài xế đã đăng
nhập vào ứng dụng nền tảng, lựa chọn
của tài xế về việc có chấp nhận yêu cầu
gọi xe hay không sẽ bị hạn chế bởi chủ
sở hữu nền tảng. Một cách để thực
hiện điều này là theo dõi tỷ lệ người
lái xe chấp nhận (và hủy bỏ) các yêu cầu gọi
xe và áp đặt Bất kỳ số tiền phạt
nếu quá nhiều yêu cầu gọi xe bị từ chối
hoặc bị hủy bằng cách làm cho tài xế không nhận
được phí và điểm đến cho chuyến
đi, cảnh báo tài xế, đình chỉ hoặc cấm
tài xế sử dụng ứng dụng. |
4. |
Uber thực hiện quyền kiểm
soát đối với cách mà tài xế Uber cung cấp dịch
vụ của họ. Ví dụ: Uber áp dụng hệ thống
xếp hạng và nếu tài xế Uber không duy trì
được mức xếp hạng nhất định,
họ có thể bị loại khỏi Ứng Dụng
Uber. |
Ứng dụng nền
tảng thường hướng tài xế đến
địa điểm đón và từ đó đến
điểm đến của hành khách. Nếu một con
đường khác được chọn và điều
này mất nhiều thời gian hơn để đến
địa điểm trả khách, tài xế có thể bị
đình chỉ sử dụng ứng dụng. Ngoài ra, chủ sở
hữu nền tảng thường sử dụng hệ
thống xếp hạng, theo đó hành khách được
yêu cầu xếp hạng tài xế sau mỗi chuyến
đi. Bất kỳ tài xế nào không duy trì được
mức xếp hạng trung bình bắt buộc sẽ nhận
được một loạt cảnh báo và nếu xếp
hạng trung bình của họ không được cải
thiện, cuối cùng mối quan hệ của họ với
chủ sở hữu nền tảng sẽ bị chấm
dứt. Mặc dù mức xếp hạng được
tiết lộ cho hành khách, nhưng hành khách không được
lựa chọn tài xế, ví dụ, mức giá cao hơn
được tính cho các dịch vụ của tài xế
được xếp hạng cao hơn. |
5. |
Mối quan hệ giữa tài xế
Uber và khách hàng rất hạn chế vì thông tin liên lạc
giữa hành khách và tài xế Uber được giữ ở
mức tối thiểu để tài xế Uber không thể
thiết lập bất kỳ mối quan hệ nào ngoài một
chuyến xe cá nhân. |
Các lập luận
tương tự có thể được đưa ra
như sau: · Giao
tiếp giữa người lái xe và hành khách bị hạn
chế đối với thông tin liên quan đến chuyến
đi và được chuyển qua ứng dụng theo
cách ngăn cản việc tìm hiểu chi tiết liên hệ
của người kia; và · Việc
thu tiền phí, thanh toán cho tài xế và xử lý các khiếu
nại đều do chủ sở hữu nền tảng
quản lý theo cách được thiết kế để
tránh bất kỳ sự tương tác trực tiếp
nào giữa hành khách và tài xế. |
Ở Việt Nam, một số chủ sở hữu nền tảng ký “hợp đồng hợp tác” với các tài xế của mình để quy định các điều khoản về mối quan hệ giữa các bên. Tuy nhiên, rà soát nhanh mẫu hợp đồng hợp tác cho thấy các điều khoản của hợp đồng hợp tác chưa phù hợp với yêu cầu của Bộ Luật Dân Sự 2015 về một hợp đồng hợp tác. Ví dụ, Bộ Luật Dân Sự 2015 quy định các bên trong hợp đồng hợp tác liên đới chịu trách nhiệm pháp lý. Tuy nhiên, trong việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng, tất cả các rủi ro đều do tài xế taxi công nghệ gánh chịu mà không phải là chủ sở hữu nền tảng. Bộ Luật Dân Sự 2015 cũng quy định các bên trong hợp đồng hợp tác sẽ tham gia vào việc đưa ra quyết định. Một lần nữa, trong việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng, chủ sở hữu nền tảng (không phải tài xế) là bên đưa ra tất cả các quyết định.
Bài viết được được thực hiện bởi Nguyễn Quang Vũ với sự đóng góp của Trịnh Phương Thảo, Trần Kim Chi, Nguyễn Thục Anh và Lê Võ Thủy Tiên.