CẤU TRÚC “BÁN” CĂN HỘ HÌNH THÀNH TRONG TƯƠNG LAI TRONG GIAI ĐOẠN TRƯỚC MÓNG TẠI VIỆT NAM

Theo pháp luật Việt Nam, chủ đầu tư dự án nhà ở (Chủ Đầu Tư) không được phép bán căn hộ hình thành trong tương lai (căn hộ hình thành trong tương lai) trước khi hoàn thành việc xây dựng phần móng của tòa nhà chung cư nơi có căn hộ hình thành trong tương lai đó (Giai Đoạn Trước Móng) (Điều 55 của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2014). Tuy nhiên, trên thực tế, bằng việc sử dụng một đơn vị độc lập hoạt động như một đại lý/bên môi giới (Đại Lý), có vẻ như nhiều Chủ Đầu Tư đã “khắc phục” được hạn chế này. Mặc dù có một số rủi ro pháp lý nhất định (như được thảo luận dưới đây), cấu trúc giao dịch có sự tham gia của Đại Lý ở Giai Đoạn Trước Móng có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị nguồn vốn vốn và khách hàng của Chủ Đầu Tư đối với các dự án nhà ở (Dự Án).

Sơ đồ và bảng sau Đây (bấm để tải về) thể hiện cấu trúc giao dịch hiện đang được một số Chủ Đầu Tư sử dụng để “bán” căn hộ hình thành trong tương lại tại Giai Đoạn Trước Móng và thảo luận về các ưu và nhược điểm liên quan. Bài viết được thực hiện bởi Nguyễn Hoàng Dương.

Hạn Chế Tiềm Ẩn (không chính xác) Đối Với Việc Thuê Văn Phòng Của Doanh Nghiệp Có Vốn Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam

Điều 14 của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2014 có tiêu đề “Đối tượng được mua, nhận chuyển nhượng, thuê, thuê mua bất động sản của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản”. Điều 14.2 của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2014 quy định rằng một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FIE), với tư cách là khách hàng của một doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, được phép “mua, thuê mua nhà, công trình xây dựng để sử dụng làm văn phòng làm việc hoặc cơ sở kinh doanh theo đúng công năng sử dụng của nhà, công trình xây dựng đó”. Điều 14.2 không bao gồm việc “thuê từ doanh nghiệp kinh doanh bất động sản” trong phạm vi được cho phép mua của một FIE. Về câu chữ, điều này có thể có được hiểu là một FIE không được phép thuê văn phòng từ các chủ đầu tư bất động sản tại Việt Nam.

Tuy nhiên, kết luận về mặt câu chữ này là trái ngược với thực tế là trong thực tiễn, nhiều FIE, đặc biệt là những FIE hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, thường xuyên thuê văn phòng từ các chủ đầu tư bất động sản. Theo đó, câu chữ của Điều 14.2 của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2014 dường như là một lỗi soạn thảo hơn là chủ ý thực sự của người soạn thảo Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2014.

QUY ĐỊNH MỚI VỀ KHU CÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM

Ngày 22 tháng 5 năm 2018, Chính Phủ đã ban hành Nghị Định 82/2018 về khu công nghiệp và khu kinh tế tại Việt Nam. Nghị Định 82/2018 thay thế Nghị Định 29/2008 kể từ ngày 10 tháng 7 năm 2018. Các điểm nổi bật của Nghị Định 82/2018 như sau:

·         Khu kinh tế nằm trong khu vực được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư từ nay được coi là vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

·         Nghị Định 82/2018 đưa ra ba loại khu công nghiệp mới gồm khu công nghiệp hỗ trợ, khu công nghiệp sinh thái và khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ. Một số ưu đãi đầu tư sẽ được áp dụng với các khu công nghiệp hỗ trợ và khu công nghiệp sinh thái (ví dụ: miễn tiền thuê đất, vốn vay ưu đãi hoặc cho thuê đất với thời hạn tối đa). Khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ có thể bao gồm khu dân cư và dịch vụ nhưng không quá một phần ba diện tích khu công nghiệp. Ngoài ra, khu chế xuất hiện từ nay được coi là một loại khu công nghiệp thay vì được phân loại thành một khu vực riêng.

·         Định nghĩa sửa đổi về doanh nghiệp chế xuất (DNCX) dường như chỉ ra rằng một DNCX không cần phải xuất khẩu tất cả các sản phẩm của mình. Thay vào đó, DNCX chỉ cần chuyên sản xuất các sản phẩm xuất khẩu.

·         Nghị Định 82/2018 cho phép một khu công nghiệp có các cơ sở nhà ở riêng biệt cho các nhà quản lý, giám đốc điều hành và chuyên gia nước ngoài.

Bài viết được đóng góp bởi Hà Kiều Anh, luật sư tập sự tại Venture North Law.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CÓ ĐƯỢC QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI VIỆT NAM

Ở Việt Nam, tư hữu về đất đai không được thừa nhận theo quy định của Hiến Pháp và Luật Đất Đai 2013. Thay vào đó, một chủ thể có thể có được các quyền nhất định gần với các quyền sở hữu về đất đai (quyền sử dụng đất) theo quy định của pháp luật đất đai. Nhà đầu tư nước ngoài không thuộc các chủ thể có quyền được cấp quyền sử dụng đất tại Việt Nam, nhưng một công ty trong nước (Công Ty Trong Nước) do nhà đầu tư nước ngoài đó sở hữu một phần hoặc toàn bộ có thể được cấp quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư của mình.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, một Công Ty Trong Nước có thể có được quyền sử dụng đất đối với một diện tích đất thông qua một trong các phương án sau: