KHÔNG CÓ KHÁI NIỆM VỀ PHỐI HỢP HÀNH ĐỘNG TRONG PHÁP LUẬT CHỨNG KHOÁN CỦA VIỆT NAM

Tại các hệ thống pháp luật khác, Phối Hợp Hành Động (Acting In Concert) về cơ bản được hiểu là sự hợp tác có chủ đích giữa hai hay nhiều bên để thực hiện việc kiểm soát một công ty niêm yết. Và quyền biểu quyết của những người được xem là phối hợp hành động sẽ có được cộng lại để tính xem liệu có cần thực hiện thủ tục công bố và/hoặc chào mua công khai bắt buộc hay không. Quy định về chứng khoán của Việt Nam không dự trù và quy định một cách rõ ràng khái niệm “phối hợp hành động”. Bởi vậy, ở Việt Nam việc những người không phải người liên quan theo luật có thể kết hợp phiếu biểu quyết của mình để kiểm soát (hoặc tác động tới việc kiểm soát) một công ty đại chúng mà không phải công bố hoặc thực hiện chào mua công khai là khá phố biến. Thực tế này có thể gây ra thiệt hại cho các nhà đầu tư đại chúng, những người không nắm được các thay đổi tiềm ẩn về quyền kiểm soát công ty đại chúng.

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA CÔNG TY TẠI VIỆT NAM

Bộ Luật Hình Sự 2015 có hiệu lực từ 1 tháng 1 năm 2018 lần đầu tiên đưa ra trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân tại Việt Nam. Trước khi có Bộ Luật Hình Sự 2015, chỉ có các cá nhân mới phải chịu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam. Đây là một thay đổi lớn đối với hệ thống luật hình sự Việt Nam. Tài liệu kèm theo đây tóm tắt các phân tích của chúng tôi về trách nhiệm hình sự của công ty tại Việt Nam trong Tập 2 của sách Những nguyên tắc của Luật Doanh Nghiệp Việt Nam.

Bấm vào Đây để tải về.

NHẬN DIỆN CỔ ĐÔNG LỚN TRONG MỘT NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

Theo quy định của Luật Các Tổ Chức Tín Dụng 2010,

·         Cổ đông lớn của một ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam (Ngân Hàng VN) là cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp ít nhất 5% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết của Ngân Hàng VN. Sở hữu gián tiếp được định nghĩa là một tổ chức hoặc các nhân sở hữu vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần của một tổ chức tín dụng thông qua một người liên quan hoặc quỹ đầu tư; và

·         Yêu cầu phải có chấp thuận của NHNN đối với “việc chuyển nhượng cổ phần bởi cổ đông lớn” hoặc “chuyển nhượng cổ phần dẫn tới một cổ đông lớn trở thành cổ đông nhỏ và ngược lại.”

TẦM QUAN TRỌNG CỦA TỶ LỆ SỞ HỮU CỔ PHẦN CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Việc xác định tỷ lệ sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư nước ngoài trong ngân hàng thương mại Việt Nam (Ngân Hàng VN) là rất quan trọng, bởi vì:

·         Có sự khác biệt về giới hạn sở hữu nước ngoài áp dụng đối với từng loại nhà đầu tư nước ngoài trong một Ngân Hàng VN (xem tại Đây);

·         Tồn tại các yêu cầu khác nhau áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài trong một Ngân Hàng VN phụ thuộc vào tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư đó. Ví dụ, một nhà đầu tư nước ngoài sở hữu từ 10% cổ phần trở lên phải (bao gồm nhưng không giới hạn) có xếp loại tính dụng quốc tế và phải có tổng tài sản từ 10 tỷ đô la Mỹ trở lên (đối với các nhà đầu tư là tổ chức tài chính) hoặc vốn điều lệ từ 1 tỷ đô la Mỹ trở lên (đối với các nhà đầu tư không phải là tổ chức tài chính);