TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA CÔNG TY TRONG TRƯỜNG HỢP MỘT GIAO DỊCH MUA BÁN SÁP NHẬP TẠI VIỆT NAM

Bộ luật hình sự 2015 (BLHS 2015) không quy định về việc liệu trách nhiệm hình sự công ty thực hiện bởi một pháp nhân thương mại sẽ được kế thừa hoặc hủy bỏ nếu pháp nhân đó giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, và ngừng hoạt động. Theo Bộ Luật Dân Sự 2015, khi một pháp nhân bị sáp nhập, hợp nhất hoặc chia thì chỉ có nghĩa vụ dân sự của pháp nhân đó được chuyển cho pháp nhân mới (hoặc kế thừa) liên quan. Như vậy, trách nhiệm hình sự của pháp nhân đó có thể không được cho pháp nhân mới (hoặc kế thừa). Tương tự, theo Luật Doanh Nghiệp 2014, khi một doanh nghiệp bị sáp nhập, hợp nhất hoặc bị chia, chỉ có các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản được chuyển cho doanh nghiệp mới (hoặc kế thừa). Không rõ là liệu trách nhiệm hình của doanh nghiệp đầu tiên có thể đủ điều kiện để được coi là nghĩa vụ tài sản có thể được chuyển hoặc kế thừa bởi doanh nghiệp mới (hoặc kế thừa) hay không.

Theo quy định của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015, nếu một pháp nhân đã bị kết án về một tội phạm, thực hiện việc sáp nhập, chia tách, hợp nhất thì pháp nhân tiếp nhận các quyền và nghĩa vụ của pháp nhân đề cập ban đầu sẽ phải chịu trách nhiệm chấp hành các hình phạt bằng tiền. Quy định này dường như chỉ ra rằng không phải mọi trách nhiệm hình sự sẽ được sẽ được chuyển cho pháp nhân kế thừa. Mặc dù vậy, trong một Hội Thảo về trách nhiệm hình sự công ty, một cán bộ của Bộ Tư Pháp, là thành viên ban soạn thảo BLHS 2015 đã chỉ ra rằng cán bộ này ủng hộ quan điểm yêu cầu rằng trong trường hợp pháp nhân giải thể, sáp nhập, hợp nhất, hoặc bị chia, pháp nhân mới (hoặc kế thừa) phải thừa kế trách nhiệm hình sự của pháp nhân bị giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia.

VAI TRÒ CỦA CHƯƠNG TRÌNH TUÂN THỦ NỘI BỘ TRONG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA CÔNG TY TẠI VIỆT NAM

Liên quan tới trách nhiệm hình sự của công ty, pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể về vai trò của chương trình tuân thủ nội bộ (corporate compliance program). Điều này có nghĩa là một chương trình tuân thủ nội bộ đang triển khai không thể được sử dụng trực tiếp để ngăn ngừa trách nhiệm hình sự của công ty. Điều này khác với Các Hệ Thông Pháp Luật Khác. Mặc dù vậy, một chương trình tuân thủ nội bộ có thể hữu ích theo quy định của BLHS 2015 vì các lý do sau đây:

·         Một công ty có thể tham chiếu đến việc triển khai chương trình tuân thủ nội bộ như là bằng chứng chứng minh rằng công ty không chỉ dẫn, hướng dẫn hay chấp nhận một hành vi tội phạm thực hiện bởi các cá nhân liên quan trong công ty; và

·         Chương trình tuân thủ có thể được xem như là tình tiết giảm nhẹ theo quy định của BLHS 2015 (một phương thức để ngăn chặn và giảm thiểu thiệt hại gây ra bởi hành vi phạm tội).

TRỞ NGẠI CHO VIỆC THÂU TÓM THÙ ĐỊCH TẠI VIỆT NAM

Xét đến sự thiếu rõ ràng của các Quy Định Về Chào Mua Công Khai và sự khó khăn trong việc thực thi các quy tắc đó trong thực tiễn, không quá khó khăn đối với nhà đầu tư trong việc tích lũy đáng kể cổ phần của một công ty cổ phần đại chúng (công ty mục tiêu) tại Việt Nam. Tuy nhiên, nếu nhà đầu tư này không được hậu thuẫn bởi Hội Đồng Quản Trị của công ty mục tiêu, thì nhà đầu tư không được hoan nghênh này có thể gặp khó khăn khi tham gia quản lý công ty mục tiêu ngay cả khi nhà đầu tư có thể nắm quyền kiểm soát của công ty mục tiêu ở cấp cổ đông. Điều này là bởi:

ÁP DỤNG SỞ HỮU GIÁN TIẾP TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH GIỚI HẠN SỞ HỮU TRONG NGÂN HÀNG CỔ PHẦN VIỆT NAM

Một cổ đông (đặc biệt là một cổ đông nước ngoài) tại một ngân hàng cổ phần Việt Nam (Ngân Hàng VN) phải biết tỷ lệ nắm giữ của họ trong Ngân Hàng VN là bao nhiêu. Điều này là bởi (1) Có các mức sở hữu tối đa áp dụng cho một cổ đông đơn lẻ hoặc một nhóm người liên quan, và (2) một “Cổ Đông Lớn” cần có chấp thuận từ Ngân hàng nhà nước (NHNN). Việc Luật các tổ chức tín dụng 2010 (LCTCTD 2010) và Nghị Định 01/2014 đưa ra khái niệm về “sở hữu gián tiếp” đã dẫn tới khó có thể xác định chính xác tỷ lệ sở hữu cổ phần của một cổ đông trong một Ngân Hàng VN cho mục đích tại (1) và (2) nêu trên. Sở hữu gián tiếp được định nghĩa là việc một tổ chức, cá nhân sở hữu vốn điều lệ, vốn cổ phần của tổ chức tín dụng thông qua người có liên quan hoặc thông qua ủy thác đầu tư.