Đồng Chủ Tịch Trong Một Công Ty Cổ Phần (CTCP) Có Được Cho Phép Theo Pháp Luật Việt Nam?

Theo pháp luật Việt Nam, việc đồng chủ tịch trong một CTCP là không được phép vì vị trí Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị (HĐQT) chỉ được nắm giữ bởi một người:

· Điều 152 của Luật Doanh Nghiệp 2014 quy định rõ ràng rằng HĐQT sẽ bầu một thành viên của HĐQT làm Chủ Tịch, không có ngoại lệ nào có thể được quy định trong điều lệ;

· Các tiêu chuẩn khác nhau của thành viên HĐQT theo Luật Doanh Nghiệp 2014 chỉ ra rằng các thành viên HĐQT cũng như Chủ Tịch HĐQT phải là người tự nhiên (đó là: có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh của công ty). Một đồng chủ tịch không phải là một người tự nhiên như vậy.

Tuy nhiên, có một cơ chế tiềm năng để thiết lập việc đồng chủ tịch. Cụ thể, có thể sửa đổi điều lệ của CTCP để:

· tạo ra một vị trí khác với các quyền giống như của Chủ Tịch (ví dụ: Phó Chủ Tịch);

· yêu cầu rằng Chủ Tịch chỉ được ra các quyết định nếu được Phó Chủ Tịch đồng ý; và

· yêu cầu một số văn bản nhất định phải có chữ ký của cả Chủ Tịch và Phó Chủ Tịch.

Các cấu trúc tiềm năng để vượt qua ngưỡng thông báo tập trung kinh tế tại Việt Nam

Các ngưỡng thông báo tập trung kinh tế theo Nghị Định 35/2020 mới được soạn thảo một cách rộng và không có ngoại lệ (xem thêm tại Đây). Theo đó, nhiều giao dịch M&A, dù không có tác động hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam vẫn phải tuân thủ các yêu cầu về thông báo. Một quy trình thông báo có thể tốn thời gian và nỗ lực đáng kể do theo luật và trên thực tế, cơ quan quản lý cạnh tranh (NCC) có thẩm quyền rộng trong việc yêu cầu thêm thông tin hoặc các văn bản về các bên. Dưới đây là một số cấu trúc tiềm năng để vượt qua ngưỡng thông báo tập trung kinh tế tại Việt Nam. Rủi ro gắn liền với các cấu trúc này là các cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam có thể cho rằng các bên đã thực hiện một giao dịch để che giấu một giao dịch khác và do đó giao dịch đầu tiên không có hiệu lực. Việc không thông báo cho NCC có thể bị phạt từ 1% đến 5% tổng doanh thu tại Việt Nam của các bên.

Liên doanh không thành lập

Đối với một giao dịch liên doanh, thay vì thành lập một công ty liên doanh mới, các bên có thể xem xét tham gia vào một liên doanh không thành lập theo đó không có chủ thể mới được thành lập (ví dụ: Hợp Đồng Chia Sẻ Sản Xuất). Một liên doanh không được thành lập không thuộc các hình thức tập trung kinh tế phải tuân thủ thông báo tập trung kinh tế tại Việt Nam. Điều này là do Luật Cạnh Tranh 2018 chỉ áp dụng rõ ràng cho các liên doanh được thành lập chứ không phải các liên doanh chưa/không được thành lập.

Tái cấu trúc nội bộ và thông báo tập trung kinh tế tại Việt Nam

Luật Cạnh Tranh 2018 không miễn trừ yêu cầu thông báo tập trung kinh tế thực hiện tái cấu trúc nội trong một nhóm các công ty. Tuy vậy, có thể nhận định rằng, tái cấu trúc nội bộ giữa các công ty dưới quyền kiểm soát của một công ty mẹ không thuộc trường hợp phải thực hiện thông báo tập trung kinh tế tại Việt Nam. Bởi vì:

· Theo luật cạnh tranh, thị phần của một công ty được xác định thông qua thị phần của nhóm công ty mà công ty là thành viên (Nhóm). Do đó, việc tái cấu trúc nội bộ trong nhóm công ty không làm ảnh hưởng đến thị phần của Nhóm, và theo đó không tạo ra bất kì tác động hạn chế cạnh tranh nào trên thị trường. Theo Khoản 1 của Luật Cạnh Tranh 2018, quy định về phạm vi điều chỉnh của Luật Cạnh Tranh 2018, có thể lập luận rằng việc giao dịch tái cấu trúc nội bộ không được điều chỉnh bởi Luật Cạnh Tranh 2018.

Nghị Định 35/2020 - Ngưỡng thông báo tập trung kinh tế tại Việt Nam

Trong đợt bùng phát Covid-19, Chính phủ Việt Nam đã ban hành một nghị định quan trọng để thi hành Luật Cạnh Tranh 2018. Trong nhiều nội dung mới, Chính Phủ đã đưa ra một bộ ngưỡng thông báo tập trung kinh tế (gần như) mới hoàn toàn. Đáng tiếc là, giống như các biện pháp giãn cách xã hội được áp dụng trong thời gian Covid-19, ngưỡng thông báo tập trung kinh tế có khả năng nới rộng khoảng cách pháp lý giữa các bên tham gia các thỏa thuận M&A tại Việt Nam, đặc biệt là các giao dịch do các tập đoàn lớn thực hiện.

Theo Luật Cạnh Tranh 2004 cũ, Chính phủ chỉ áp dụng ngưỡng "thị phần” để xác định xem việc thông báo tập trung kinh tế có cần thực hiện hay không. Do sự không rõ ràng và khó khăn trong việc xác định thị phần trong thực tế, chỉ có một vài thỏa thuận M&A phải nộp đơn thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh Tranh 2004 cũ. Bây giờ, điều đó không còn đúng nữa. Ngoài ngưỡng thị phần cũ, Nghị định 35/2020 còn đưa ra hai ngưỡng mới (ví dụ: ngưỡng "giá trị chủ thể" và ngưỡng “giá trị giao dịch”) mà không có ngoại lệ. Bất kỳ “tập trung kinh tế” nào thỏa mãn bất kỳ một trong ba ngưỡng riêng biệt và độc lập sẽ cần phải được thông báo tới Ủy Ban Cạnh Tranh Quốc Gia (NCC) chưa được thành lập. Có thể nói NCC hiện có lẽ có nhiều ngưỡng thông báo tập trung kinh tế hơn so với các cơ quan cạnh tranh ở EU (một), Mỹ (hai) và Trung Quốc (một), đấy là một dấu hiệu không tốt cho luật sư M&A tại Việt Nam.