Các điều kiện vay nước ngoài nghiêm ngặt hơn đối với pháp nhân Việt Nam theo dự thảo thông tư

Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam (NHNN) đang soạn thảo thông tư (Dự Thảo) thay thế Thông Tư 12 ngày 31 tháng 3 năm 2014 quy định về điều kiện vay nước ngoài của doanh nghiệp không được Chính Phủ bảo lãnh (Thông Tư 12/2014). Dự Thảo có một số thay đổi đáng chú ý về điều kiện vay nước ngoài của các công ty và tổ chức tín dụng Việt Nam, và về cơ bản sẽ theo hướng thắt chặt các điều kiện này.

Hạn chế các mục đích vay nước ngoài

1. Dự Thảo thu hẹp các mục đích mà doanh nghiệp có thể vay vốn nước ngoài. Cụ thể,

1.1. Đối với các khoản vay ngắn hạn nước ngoài, doanh nghiệp được vay nước ngoài để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn có nghĩa vụ phải trả trong vòng 12 tháng kể từ thời điểm ký thỏa thuận vay nước ngoài. Tuy nhiên, mục đích này không bao gồm việc thanh toán (i) các khoản vay trong nước với người cư trú, và (ii) các khoản nợ phát sinh từ giao dịch chi mua chứng khoán kinh doanh, mua phần vốn góp hoặc cổ phần của công ty khác, mua bất động sản đầu tư hoặc nhận chuyển nhượng dự án. Không rõ trường hợp loại trừ cuối cùng chỉ đề cập đến các dự án bất động sản hay bất kỳ loại dự án nào.

Chuyển vốn bổ sung vào tài khoản vốn đầu tư trực tiếp (DICA) của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sau khi hết thời hạn góp vốn

Theo Thông Tư 06 của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam ngày 26 tháng 6 năm 2019 hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (Thông Tư 06/2019), nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư Việt Nam (Nhà Đầu Tư) của một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FIE) phải chuyển các khoản tiền góp vốn cho FIE thông qua tài khoản vốn đầu tư trực tiếp (DICA) của FIE được mở tại một ngân hàng tại Việt Nam. Bài viết này trao đổi về việc liệu các Nhà Đầu Tư có thể chuyển vốn điều lệ bổ sung (Vốn Bổ Sung) vào tài khoản DICA nếu thời hạn góp vốn theo Giấy Chứng Nhận Đăng Ký Đầu Tư (IRC) đã hết.

Ủy quyền của ĐHĐCĐ cho HĐQT theo pháp luật Việt Nam

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, không rõ liệu Đại Hội Đồng Cổ Đông (ĐHĐCĐ) của một công ty cổ phần (CTCP) có được phép ủy quyền (hoặc giao phó) quyền lực của mình cho Hội Đồng Quản Trị hay không hoặc phạm vi mà ĐHĐCĐ có thể ủy quyền quyền lực của mình cho Hội Đồng Quản Trị, nếu có thể làm như vậy. Cụ thể:

· Điều 15.4 của Nghị Định 156/2020 quy định hình phạt đối với Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị nếu người này không báo cáo với ĐHĐCĐ về việc thực hiện nghị quyết của ĐHĐCĐ, trừ trường hợp được ĐHĐCĐ uỷ quyền. Quy định này hàm ý rằng ĐHĐCĐ của một CTCP đại chúng có thể ủy quyền cho Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị được thay đổi các vấn đề đã được ĐHĐCĐ quyết định. Có thể lập luận rằng, nếu ĐHĐCĐ có thể uỷ quyền cho chủ tịch Hội Đồng Quản Trị thì ĐHĐCĐ có thể uỷ quyền cho Hội Đồng Quản Trị.

Khung pháp lý về các dịch vụ giáo dục trực tuyến (e-learning) tại Việt Nam

Những năm gần đây đã chứng kiến ​​sự phát triển nhanh chóng của thị trường e-learning tại Việt Nam, đặc biệt là kể từ khi bùng phát dịch Covid-19. Mặc dù vậy, vẫn chưa có một khung pháp lý rõ ràng cho dịch vụ e-learning theo pháp luật Việt Nam. Bài đăng này sẽ thảo luận về một số vấn đề pháp lý liên quan đến việc cung cấp các dịch vụ e-learning.

Phương thức cung cấp dịch vụ

Nhìn chung, dịch vụ e-learning có thể được cung cấp cho học sinh thông qua hai phương thức chính:

Phương thức không tương tác, trong đó học sinh sẽ trả tiền để có quyền tiếp cận các tài liệu học tập do nhà cung cấp dịch vụ chuẩn bị (ví dụ: bài giảng được ghi hình trước, sách, v.v.) và không có tương tác trực tiếp giữa học sinh và giáo viên. Học sinh phải tự nghiên cứu tài liệu do nhà cung cấp dịch vụ cung cấp; và