Sửa đổi về giới hạn chi phí lãi vay theo Nghị Định 20/2017

Vào tháng 6 năm 2020, Chính Phủ ban hành Nghị Định 68/2020 sửa đổi các quy tắc về giới hạn chi phí lãi vay theo Nghị Định 20/2017. Theo Nghị Định 20/2017, tổng chi phí lãi vay được khấu trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp của một công ty không được vượt quá 20% EBITDA của công ty đó. Hạn chế này đã tạo nên một làn sóng phản đối từ các doanh nghiệp Việt Nam bởi mục đích của Nghị Định 20/2017 là để điều chỉnh số thuế phát sinh từ các giao dịch liên kết mà không phải là để điều chỉnh chung về thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngoài ra, Luật Thuế Thu Nhập Doanh Nghiệp không quy định về hạn chế chi phí lãi vay.

Để giải quyết một số khiếu nại về Nghị Định 20/2017, Nghị Định 68/2020 đưa ra các sửa đổi sau, trong số những sửa đổi khác:

· Chi phí lãi vay bị hạn chế được dựa trên tổng chi phí lãi vay thuần. Điều này có nghĩa là một công ty được phép khấu trừ thu nhập từ lãi vay khỏi tổng chi phí lãi vay trước khi tính hạn chế chi phí lãi vay.

Yêu cầu thông báo tập trung kinh tế phát sinh từ việc xử lý tài sản bảo đảm là cổ phần và phần vốn góp theo Luật Cạnh Tranh của Việt Nam

Theo quy định của Luật Cạnh Tranh 2018, nhìn chung, bất kỳ giao dịch tập trung kinh tế nào (cụ thể, bất kỳ giao dịch mua bán và sáp nhập nào) đạt Ngưỡng Thông Báo Tập Trung Kinh Tế theo Nghị Định 35/2020 sẽ phải thông báo với Ủy Ban Cạnh Tranh Quốc Gia (UBCTQG). Theo đó, việc xử lý tài sản bảo đảm là cổ phần và phần vốn góp bởi bên cho vay dẫn đến việc thay đổi về quyền kiểm soát của bên vay có thể được coi là tập trung kinh tế, và phải tuân thủ yêu cầu thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh Tranh 2018. Điều này có thể gây mất nhiều thời gian đối với bên cho vay (ví dụ, một ngân hàng Việt Nam hoặc một bên cho vay nước ngoài) (các chủ nợ có bảo đảm) trong việc xử lý cổ phần hoặc phần vốn góp được thế chấp/cầm cố trên thực tế.

Theo Nghị Định 163/2006, trong trường hợp thế chấp/cầm cố cổ phần hoặc phần vốn góp, chủ nợ và bên nhận nợ có thể thỏa thuận về những phương thức xử lý tài sản bảo đảm sau đây: (i) bán cổ phần được thế chấp/cầm cố (bằng cách bán đấu giá hoặc bán riêng lẻ); (ii) nhận chính cổ phần được thế chấp/cầm cố để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ hoặc (iii) phương thức xử lý khác.

Thay Đổi Toàn Diện Đối Với Quyền Ưu Tiên Mua Của Cổ Đông Hiện Hữu Trong Công Ty Cổ Phần Ở Việt Nam

Những thay đổi đối với quyền ưu tiên mua của cổ đông hiện hữu trong các công ty cổ phần (CTCP) (ít nhất là các công ty không đại chúng) đã làm nhiều luật sư M&A Việt Nam bất ngờ. Trong 20 năm qua, Luật Doanh Nghiệp luôn quy định rằng một cổ đông có quyền được ưu tiên mua cổ phần mới được phát hành của CTCP tương ứng với tỷ lệ cổ phần đang sở hữu. Tuy nhiên, theo các phiên bản trước của Luật Doanh Nghiệp, những quy định về chào bán riêng lẻ hoặc chào bán ra công chúng cổ phần cho phép CTCP có thể phát hành cổ phần mới cho những nhà đầu tư là bên thứ ba mà không cần phải có được từ bỏ quyền ưu tiên mua của các cổ đông hiện hữu. Do đó, điều này trở thành thông lệ thị trường rằng việc chào bán cổ phần riêng lẻ hoặc chào bán cổ phần ra công chúng (hoặc các loạicổ phần có thể chuyển đổi) không yêu cầu phải có sự từ bỏ (hoặc tuân thủ) quyền ưu tiên mua của cổ đông hiện hữu (xem thêm những thảo luận có liên quan tại Đâytại Đây).

Một Số Điểm Mới Nổi Bật Của Luật Đầu Tư 2020

Quốc Hội Việt Nam đã thông qua Luật Đầu Tư mới vào ngày 17 tháng 6 năm 2020, sẽ có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 2021 (LĐT 2020) và thay thế Luật Đầu Tư 2014 (LĐT 2014). Trong bài viết này, chúng tôi sẽ bàn luận vắn tắt về một vài điểm chính của LĐT 2020.

Bài viết được thực hiện bởi Hà Thị Dung và biên tập bởi Nguyễn Quang Vũ, với sự hỗ trợ nghiên cứu của Trần Kim Chi.

Vui lòng tải bản đầy đủ tại Đây