Hướng dẫn mới về đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và công trình xây dựng - Phần 1

Ngày 25 tháng 11 năm 2019, Bộ Tư pháp (BTP) đã ban hành Thông Tư 7 hướng dẫn một số nội dung về thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (Thông Tư 7/2019). Thông Tư 7/2019 sẽ có hiệu lực từ ngày 10 tháng 1 năm 2020 và thay thế Thông Tư liên tịch số 9 của BTP và Bộ Tài nguyên và Môi trường (BTNMT) ngày 23 tháng 6 năm 2016 (TTLT 9/2016) về cùng một vấn đề. Nhìn chung, Thông Tư 7/2019 chỉ đưa ra một số quy định hướng dẫn và bổ sung cho Nghị Định 102 của Chính Phủ ngày 1 tháng 9 năm 2017 (Nghị Định 102/2017) thay vì cung cấp hướng dẫn chi tiết như TTLT 9/2016.

Cơ quan có thẩm quyền quản lý việc đăng ký thế chấp

Trước đây, văn bản quy định chi tiết hoạt động đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thường là thông tư liên tịch của BTP và BTNMT. Tuy nhiên, vì thông tư liên tịch không còn là một loại văn bản quy phạm pháp luật theo Luật Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật 2015. Do đó, thẩm quyền quản lý thống nhất việc đăng ký biện pháp bảo đảm được trao cho BTP. Theo Nghị Định 102/2017, BTP hiện có thẩm quyền ban hành hoặc trình Chính Phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm, bao gồm cả Thông Tư 7/2019.

Bảo lãnh hoàn trả tiền cho người mua nhà ở trong một dự án bất động sản tại Việt Nam

Để bảo vệ người mua trong một dự án nhà ở, Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2014 yêu cầu chủ đầu tư cung cấp cho người mua một bảo lãnh hoàn trả tiền mua nhà của ngân hàng. Nếu chủ đầu tư không bàn giao nhà theo lịch trình đã thỏa thuận, người mua có thể lấy lại khoản thanh toán trước từ bảo lãnh ngân hàng. Tuy nhiên, có một số cách mà chủ đầu tư có thể sử dụng để hạn chế cơ chế bảo vệ được quy định theo luật này. Ví dụ,

 · Chủ đầu tư có thể khuyến khích người mua “từ bỏ” quyền được cấp bảo lãnh hoàn trả ngân hàng (ví dụ: bằng cách đề nghị giảm giá bán);

Quyền Sử Dụng Đất Có Được Coi Là Bất Động Sản Theo Pháp Luật Việt Nam?

Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, có khả năng “quyền sử dụng đất” được coi là “bất động sản”. Các luận điểm sau đây hỗ trợ quan điểm cho rằng quyền sử dụng đất là bất động sản theo pháp luật Việt Nam:

·         Quyền sử dụng đất (QSDĐ) là quyền tài sản, cũng chính là tài sản. Tài sản được chia thành động sản và bất động sản. Các bất động sản được xác định bao gồm: (i) Đất; (ii) Nhà và công trình xây dựng gắn liền với đất; (iii) Các tài sản khác gắn liền với đất, nhà hoặc công trình xây dựng; và (iv) các tài sản khác theo quy định của pháp luật.  

·         Về mục (iv) nêu trên, QSDĐ được quy định theo Điều 5.4 của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2014 dưới dạng “bất động sản đưa vào kinh doanh”. Quan điểm này cũng được Tiến sĩ Đỗ Văn Đại áp dụng trong cuốn sách về Bộ Luật Dân Sự 2015.

·         Về mục (iii), Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn coi QSDĐ là bất động sản vì chúng là “tài sản gắn liền với đất”.

·         Tại Án Lệ 26/2018, Tòa Án Tối Cao đã áp dụng thời hiệu 30 năm đối với yêu cầu chia thừa kế bất động sản trong tranh chấp bao gồm QSDĐ. Có thể cho rằng, Tòa Án Tối Cao đã đưa ra quan điểm rằng QSDĐ là bất động sản.

Các luận điểm sau đây hỗ trợ quan điểm cho rằng quyền sử dụng đất không phải là bất động sản theo pháp luật Việt Nam:

·         Dựa trên sự thay đổi về câu chữ của Điều 5.4 của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2014 so với Điều 6.1(b) của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2006, không còn rõ liệu QSDĐ có phải là bất động sản đưa vào kinh doanh hay không. Câu chữ của Điều 5.4 của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2014 có thể được hiểu là: đất (mà có quyền sử dụng được phép chuyển nhượng, cho thuê hoặc cho thuê lại theo luật đất đai) là bất động sản đưa vào kinh doanh, và QSDĐ của mảnh đất đó có thể giao dịch trực tiếp.

Hạn Chế Tiềm Ẩn (không chính xác) Đối Với Việc Thuê Văn Phòng Của Doanh Nghiệp Có Vốn Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam

Điều 14 của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2014 có tiêu đề “Đối tượng được mua, nhận chuyển nhượng, thuê, thuê mua bất động sản của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản”. Điều 14.2 của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2014 quy định rằng một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FIE), với tư cách là khách hàng của một doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, được phép “mua, thuê mua nhà, công trình xây dựng để sử dụng làm văn phòng làm việc hoặc cơ sở kinh doanh theo đúng công năng sử dụng của nhà, công trình xây dựng đó”. Điều 14.2 không bao gồm việc “thuê từ doanh nghiệp kinh doanh bất động sản” trong phạm vi được cho phép mua của một FIE. Về câu chữ, điều này có thể có được hiểu là một FIE không được phép thuê văn phòng từ các chủ đầu tư bất động sản tại Việt Nam.

Tuy nhiên, kết luận về mặt câu chữ này là trái ngược với thực tế là trong thực tiễn, nhiều FIE, đặc biệt là những FIE hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, thường xuyên thuê văn phòng từ các chủ đầu tư bất động sản. Theo đó, câu chữ của Điều 14.2 của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2014 dường như là một lỗi soạn thảo hơn là chủ ý thực sự của người soạn thảo Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2014.