Quy định áp dụng với Chủ tịch Hội đồng quản trị có lợi ích liên quan trong một công ty ở Việt Nam

Để kiểm soát các hợp đồng ký giữa một công ty cổ phần Việt Nam (CTCP) với những người có liên quan của công ty, Luật Doanh Nghiệp 2014 yêu cầu một hợp đồng như vậy phải được Hội Đồng Quản Trị hoặc Đại Hội Đồng Cổ Đông của CTCP chấp thuận. Nếu hợp đồng với người có liên quan phải được Hội Đồng Quản Trị chấp thuận, quy định của pháp luật cấm thành viên Hội Đồng Quản Trị có lợi ích liên quan biểu quyết đối với việc chấp thuận hợp đồng đó. Tuy nhiên, nếu Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị là thành viên Hội Đồng Quản Trị có lợi ích liên quan, pháp luật không quy định rõ ràng rằng liệu Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị có được tham gia vào các công đoạn khác trong quá trình chấp thuận hợp đồng với người có liên quan hay không. Các công đoạn khác bao gồm chuẩn bị dự thảo nghị quyết của Hội Đồng Quản Trị, triệu tập và chủ tọa cuộc họp Hội Đồng Quản Trị để xem xét hợp đồng. Các bước này có thể là chìa khóa để quyết định liệu hợp đồng với người có liên quan có thể được phê duyệt hay không.

Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại gián tiếp (reflective loss) theo Luật Doanh Nghiệp 2014

Nếu giám đốc của một công ty cổ phần (Công Ty) vi phạm trách nhiệm của người quản lý (fiduciary duties) của mình và gây thiệt hại cho Công Ty, theo Điều 161.1 của Luật Doanh Nghiệp 2014, cổ đông hoặc nhóm cổ đông nắm giữ từ 1% cổ phần phổ thông trở lên trong sáu tháng liên tiếp (Cổ Đông 1%) có thể nhân danh chính mình hoặc nhân danh Công Ty để khởi kiện dân sự đối với giám đốc. Tuy nhiên, không rõ liệu (1) Cổ Đông 1% có thể yêu cầu giám đốc bồi thường trực tiếp cho Cổ Đông 1% hay (2) Cổ Đông 1% chỉ có thể yêu cầu giám đốc bồi thường cho Công Ty. Hay nói cách khác, không rõ liệu Cổ Đông 1% có thể yêu cầu giám đốc bồi thường đối với thiệt hại gián tiếp hay không (ví dụ: sụt giảm giá trị cổ phần của Cổ Đông này trong Công Ty).

Các luận điểm sau đây hỗ trợ cho quan điểm rằng Cổ Đông 1% không thể yêu cầu bồi thường đối với thiệt hại gián tiếp:

·          Theo Luật Doanh Nghiệp 2014, một cổ đông không được phép rút vốn khỏi công ty dưới mọi hình thức. Nếu cho phép yêu cầu bồi thường thiệt hại gián tiếp thì Cổ Đông 1% được gián tiếp rút vốn khỏi Công Ty, điều trái với nguyên tắc do Luật Doanh Nghiệp 2014 quy định;

Nhìn Rõ Hơn Về Việc Sử Dụng Tài Khoản DICA Cho Các Giao Dịch M&A Tại Việt Nam - Phần 2

Định nghĩa không rõ ràng về 51% FIE

Theo Thông Tư 6/2019, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FIE), phải mở DICA bao gồm (1) doanh nghiệp được thành lập bởi các nhà đầu tư nước ngoài (có hoặc không có đối tác trong nước) (Incoporated FIE); và (2) các doanh nghiệp không thuộc (1) nhưng 51% vốn điều lệ thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (51% FIE). Thông thường, 51% FIE sẽ được coi là một FIE, 51% vốn điều lệ của công ty đó thực sự được sở hữu bởi các nhà đầu tư nước ngoài (Actual 51% FIE). Tuy nhiên, Thông Tư 6/2019 quy định rằng 51% FIE bao gồm các doanh nghiệp có nhà đầu tư nước ngoài góp vốn hoặc mua cổ phần dẫn đến việc nhà đầu tư nước ngoài sở hữu 51% vốn điều lệ của FIE. Việc sử dụng từ “dẫn đến” chỉ ra rằng một 51% FIE có thể là một công ty 100% được sở hữu trong nước, mà có các nhà đầu tư nước ngoài tiềm năng có thể mua lại từ 51% vốn điều lệ trở lên (Future 51% FIE). 

Còn quá sớm để biết được ý định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) là gì. Câu chữ của Điều 8.1 Thông Tư 6/2019 dường như chỉ ra rằng 51% FIE theo Thông Tư 6/2019 bao gồm cả Future 51% FIE. Mặt khác, như vậy là đi ngược lẽ thường khi coi Future 51% FIE là 51% FIE, điều mà có thể dẫn đến thêm những khó khăn và nhầm lẫn trong việc áp dụng Thông Tư 6/2019 như được thảo luận thêm dưới đây. Ngoài ra, việc coi Future 51% FIE giống như Actual 51% FIE có thể được coi là trái với Điều 23.1 của Luật Đầu Tư 2014. Theo Điều 23.1 của Luật Đầu Tư 2014, chỉ có Actual 51% FIE cần tuân thủ các thủ tục đầu tư áp dụng cho các nhà đầu tư nước ngoài (bao gồm cả việc sử dụng DICA).

Cơ Chế Hoàn Thành Giao Dịch M&A Tại Việt Nam Với Nhiều Đại Diện Theo Pháp Luật Và Con Dấu Doanh Nghiệp, Và Nộp Đơn Trực Tuyến

Nhiều quy định của Luật Doanh Nghiệp 2014 giờ đây có thể cho phép các bên trong giao dịch M&A tại Việt Nam được linh hoạt hơn trong việc thiết kế một cơ chế hoàn thành. Cụ thể,

·        Nhiều đại diện theo pháp luật – Trong một giao dịch M&A liên quan đến thay đổi quyền kiểm soát, bên mua sẽ muốn kiểm soát vị trí người đại diện theo pháp luật vào ngày hoàn thành. Nhưng điều này đòi hỏi việc đăng ký với Cơ Quan Đăng Ký Kinh Doanh. Nhiều bên bán không muốn thay đổi vị trí người đại diện theo pháp luật trước khi hoàn thành mà chưa nhận được khoản thanh toán giá mua.

 Trước đây, một công ty chỉ có thể có một người đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên, theo Luật Doanh Nghiệp 2014, một công ty có thể có hai hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Nhờ đó, các bên có thể thỏa thuận rằng công ty mục tiêu sẽ có hai người đại diện theo pháp luật được chỉ định bởi bên bán và bên mua. Người đại diện theo pháp luật được chỉ định bởi bên bán sẽ tiếp tục điều hành công ty mục tiêu cho đến khi chấm dứt và sẽ từ chức khi hoàn thành giao dịch. Người đại diện theo pháp luật của bên mua sẽ nắm quyền kiểm soát vào thời điểm hoàn thành. Và sau khi hoàn thành, công ty mục tiêu sẽ hủy đăng ký người đại diện theo pháp luật được chỉ định bởi bên bán.