Phân loại ngành nghề kinh doanh theo VSIC và CPC Tạm Thời

Theo các biểu mẫu hiện hành áp dụng cho các thủ tục đầu tư để xin cấp Giấy Chứng Nhận Đăng Ký Đầu Tư hoặc đăng ký mua lại cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài và công ty mục tiêu phải kê khai ngành nghề kinh doanh của công ty mục tiêu theo cả Hệ Thống Phân Loại Ngành Kinh Tế Việt Nam (VSIC) và Hệ Thống Phân Loại Sản Phẩm Trung Tâm Tạm Thời (CPC Tạm Thời). VSIC dựa trên Hệ Thống Phân Loại Ngành Kinh Tế Quốc Tế, không phải CPC Tạm Thời. Do đó, có thể có một số khác biệt giữa phạm vi của các dịch vụ theo VSIC và theo CPC Tạm Thời. Nói cách khác, khi đăng ký ngành nghề kinh doanh, nhà đầu tư nước ngoài có thể phải đối mặt với vấn đề trong đó phạm vi của một nhóm theo một hệ thống phân loại có thể không nằm trong nhóm tương ứng theo hệ thống phân loại khác.

Trong những trường hợp như vậy, sẽ là hợp lý để các nhà đầu tư nước ngoài quyết định chỉ tuân thủ theo một hệ thống phân loại. Ví dụ, một nhà đầu tư Nhật Bản cung cấp dịch vụ sửa chữa thiết bị chiếu sáng điện có thể phân loại ngành nghề của họ thành (i) “Sửa chữa thiết bị điện” (VSIC 3314); và (ii) “Dịch vụ sửa chữa đồ cá nhân và hộ gia đình” (CPC 6330). Nếu nhà đầu tư muốn tiếp tục cung cấp dịch vụ sửa chữa máy móc thiết bị điện, thì nhà đầu tư đó không cần phải đăng ký bổ sung ngành nghề kinh doanh. Điều này là do:

Tính thuế đối với một dự án nhà máy nhiệt điện than độc lập (IPP) ở Việt Nam

Phương thức xác định giá hợp đồng mua bán điện (HĐMB Điện) được quy định tại Thông Tư 56 của Bộ Công Thương (BCT) ngày 19 tháng 12 năm 2014, như được sửa đổi, bổ sung (Thông Tư 56/2014). Thông Tư 56/2014 sẽ điều chỉnh HĐMB Điện của (i) nhà máy điện không phải là nhà máy thủy điện chiến lược đa mục tiêu, nhà máy điện BOT độc lập, nhà máy điện sử dụng năng lượng tái tạo và (ii) các nhà máy chưa có cơ chế riêng do BCT ban hành.

Đơn giá nói chung bao gồm các thành phần sau:

Đơn Giá = Giá Cố Định + Giá VH&BD Cố Định + Giá Nhiên Liệu + Giá Vận Chuyển Nhiên Liệu Chính

Trong đó:

·         Giá Cố Định là một số cố định được xác định trước cho toàn bộ quá trình thực hiện của dự án. Giá cố định được tính toán sao cho tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (internal rate of return) của dự án nhà máy điện sẽ không vượt quá tỷ lệ quy định (tức là 10% hoặc 12% tùy thuộc vào từng trường hợp).                        

·         Giá VH&BD Cố Định là giá vận hành và bảo dưỡng cố định, là tổng giá của (i) giá cố định cho chi phí sửa chữa lớn, chi phí thiết bị và dịch vụ; và (ii) giá cố định cho chi phí nhân công. Thay đổi do lạm phát sẽ được phản ánh trong việc tính toán giá điện. Tuy nhiên, thay đổi này được giới hạn ở mức 2,5% mỗi năm, thấp hơn tỷ lệ lạm phát hàng năm thông thường ở Việt Nam.

Quy Định Về Tặng Quà Theo Luật Phòng Chống Tham Nhũng 2018 Của Việt Nam

Một thay đổi đáng chú ý của Luật Phòng Chống Tham Nhũng mới năm 2018, trong số những điều khác, là Luật Phòng Chống Tham Nhũng 2018 không chỉ áp dụng cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị và người có chức vụ khu vực trong nhà nước, mà còn cho cả các doanh nghiệp, tổ chức và người có chức vụ khu vực ngoài nhà nước. Tuy nhiên, xem xét kỹ Điều 22 về việc tặng quà và nhận quà tặng theo Luật Phòng Chống Tham Nhũng 2018 có thể cho thấy điều khác. Cụ thể,

(a)        Điều 22.2 quy định: “Cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có chức vụ, quyền hạn không được trực tiếp hoặc gián tiếp nhận quà tặng dưới bất kỳ hình thức của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan đến công việc do mình giải quyết hoặc thuộc phạm vi quản lý của mình; và

(b)        Điều 3.9 của Luật Phòng Chống Tham Nhũng 2018 định nghĩa “cơ quan, tổ chức, đơn vị” theo Luật Phòng Chống Tham Nhũng 2018 là các cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực Nhà Nước.

Dựa trên định nghĩa tại Điều 3.9 và câu chữ của Điều 22.2, có thể cho rằng các quy định và hạn chế về tặng quà theo Luật Phòng Chống Tham Nhũng 2018 chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước, cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước và người có chức vụ công chứ không phải các doanh nghiệp, tổ chức, người có chức vụ khu vực ngoài nhà nước.

Quy Định Về Thuốc Lá Điện Tử Theo Pháp Luật Việt Nam

Sau nhiều năm tồn tại, vẫn còn tranh cãi liệu thuốc lá điện tử có nên được coi là thuốc lá thực sự hay không. Từ đó, không rõ việc kinh doanh thuốc lá điện tử nên được điều chỉnh như thế nào theo luật pháp Việt Nam.

Theo Luật Phòng Chống Thuốc Lá 2012, thuốc lá được xác định là “sản phẩm được sản xuất từ toàn bộ hoặc một phần nguyên liệu thuốc lá, được chế biến dưới dạng thuốc lá điếu, xì gà, thuốc lá sợi, thuốc lào hoặc các dạng khác”. Cách dùng từ "các dạng khác” có thể bao gồm rất nhiều dạng sản phẩm. Tuy nhiên, từ định nghĩa, điểm mấu chốt khi xác định liệu một sản phẩm có phải là sản phẩm thuốc lá không phải là hình thức, mà là nguyên liệu của nó.

Trong hầu hết các trường hợp, thuốc lá điện tử là những thiết bị dùng pin hoạt động bằng cách làm nóng một dung dịch lỏng (e-liquid/tinh dầu), từ đó hơi được tạo ra. Loại tinh dầu này thường chứa nicotine - một chất kích thích thường được làm từ cây thuốc lá. Trong khi đó, định nghĩa về nguyên liệu thuốc lá theo Luật Phòng Chống Thuốc Lá 2012 bao gồm nhiều dạng lá thuốc lá, sợi thuốc lá, cọng thuốc lá và nguyên liệu thay thế khác được dùng để sản xuất thuốc lá.