SỬA ĐỔI HẠN CHẾ TRONG VIỆC SỬ DỤNG NGOẠI TỆ TẠI VIỆT NAM

Ngày 29 tháng 3 năm 2019, Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông Tư 3/2019 để sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông Tư 32 của NHNN ngày 26 tháng 12 năm 2014 về hạn chế trong việc sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam (Thông Tư 32/2013 ). Thông Tư 3/2019 sẽ có hiệu lực từ ngày 13 tháng 5 năm 2019.

Thứ nhất, một cách sơ lược, theo Pháp Lệnh Ngoại Hối, “trên lãnh thổ Việt Nam”, tất cả các giao dịch, thanh toán, định giá đều không được thực hiện bằng ngoại tệ, trừ khi được phép của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước thường đưa ra khá hạn chế (và, theo quan điểm của chúng tôi là không hợp lý) về những giao dịch nào được coi là diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam.

Hầu hết các trường hợp ngoại lệ cho hạn chế nêu trên được quy định trong Thông Tư 32/2013. Thông Tư 3/2019 mới đưa ra ngoại lệ cho các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng ngoại tệ để đặt cọc, ký quỹ bằng ngoại tệ trong các trường hợp sau:

· Khi nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần trong các doanh nghiệp nhà nước đang trong quá trình cổ phần hóa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;

· Khi nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần hoặc phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước; doanh nghiệp có vốn nhà nước đang trong quá trình thoái vốn được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; và

· Khi nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần hoặc phần vốn góp của doanh nghiệp nhà nước đầu tư các doanh nghiệp khác đang trong quá trình thoái vốn được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

CÁC BIỆN PHÁP BỔ SUNG ĐỂ XỬ LÝ THẾ CHẤP CỔ PHẦN ĐỐI VỚI CÔNG TY DỰ ÁN TẠI VIỆT NAM

Đối với tài trợ dự án hoặc tài trợ thu hồi giới hạn ở Việt Nam, việc thế chấp cổ phần (hoặc vốn chủ sở hữu) của công ty dự án thường là một phần của gói giao dịch bảo đảm do có thể dễ dàng tạo lập và hoàn thành [việc đăng ký] thế chấp cổ phần. Mặc dù vậy, khi xuất hiện sự kiện xử lý bảo đảm và nếu bên vay hoặc công ty dự án không hợp tác, bên cho vay (thường là bên cho vay nước ngoài), muốn ngay lập tức tiếp nhận cổ phần thế chấp, có thể sẽ gặp khó khăn trong việc xử lý thế chấp trên thực tế do cần hoàn thành các thủ tục cấp phép khác nhau để bán hoặc chuyển nhượng cổ phần thế chấp.

Nhờ sự linh hoạt của Luật Doanh Nghiệp 2014 và Luật Đầu Tư 2014, bên cho vay hiện nay có thể cân nhắc thực hiện một số biện pháp bổ sung để tăng khả năng xử lý thế chấp đối với cổ phần của một công ty dự án tại Việt Nam. Cụ thể là,

· Bên cho vay nước ngoài có thể yêu cầu công ty dự án phải có được một văn bản thường được gọi là “Chấp Thuận M&A” theo Điều 26 của Luật Đầu Tư 2014 có lợi cho bên cho vay nước ngoài trước. Không giống như Giấy Chứng Nhận Đăng Ký Đầu Tư, một nhà đầu tư nước ngoài được cấp Chấp Thuận M&A không thực sự phải tuân theo quy định đầu tư. Ngoài ra. các thủ tục để có được Chấp Thuận M&A không yêu cầu phải nộp hợp đồng chuyển nhượng cổ phần cho cơ quan có thẩm quyền.

NGHỊ QUYẾT MỚI CỦA TÒA ÁN TỐI CAO VỀ LÃI VAY TẠI VIỆT NAM

Vào ngày 11 tháng 1 năm 2019, Tòa án Tối cao đã ban hành Nghị Quyết 1 hướng dẫn áp dụng một số quy định về lãi, lãi suất và phạt vi phạm liên quan (Nghị Quyết 1/2019). Nghị Quyết 1/2019 sẽ có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 3 năm 2019. Dưới đây là một số quy định đáng chú ý của Nghị Quyết 1/2019

·         Nghị Quyết 1/2019 quy định rõ rằng giới hạn lãi suất của Bộ Luật Dân Sự 2005 và 2015 sẽ không áp dụng cho các hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Trước đây, đã có nhiều cuộc tranh luận liên quan đến việc liệu giới hạn lãi suất của Bộ Luật Dân Sự 2005 và 2015 có áp dụng cho các hợp đồng tín dụng hay không.

·         Nếu lãi suất, lãi quá hạn trên tiền gốc và lãi quá hạn trên lãi cao hơn giới hạn cho phép, thì tiền lãi vượt quá đã được trả sẽ được khấu trừ từ tiền gốc của khoản vay.

QUY ĐỊNH VỀ CHO VAY XUYÊN BIÊN GIỚI TẠI VIỆT NAM

Các ngân hàng nước ngoài nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam thực hiện việc cấp khoản vay xuyên biên giới cho khách hàng tại Việt Nam cần lưu ý những điều sau:

·         Theo các cam kết WTO, Việt Nam đưa ra một cam kết không ràng buộc về các dịch vụ cho vay xuyên biên giới. Thỏa thuận toàn diện và tiến bộ đối tác xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cũng không cam kết mở cho các dịch vụ cho vay xuyên biên giới. Điều này có nghĩa là Chính phủ Việt Nam có toàn quyền cho phép hoặc không cho phép hoạt động cho vay xuyên biên giới;

·         Theo Luật Tổ Chức Tín Dụng 2010, một bên cho vay nước ngoài, cho bên vay Việt Nam vay trên cơ sở thường xuyên và liên tục, có thể được xem là cung cấp dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam và phải có giấy phép trong lĩnh vực ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN);