TIẾN HÀNH THỦ TỤC PHÁ SẢN MÀ KHÔNG CÓ SỰ HỢP TÁC CỦA DOANH NGHIỆP PHÁ SẢN

Theo Luật Phá Sản 2014, về cơ bản, các chủ nợ của một doanh nghiệp phá sản có thể tiến hành thủ tục phá sản để thanh lý tài sản mà không cần có sự hợp tác của doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, có những khó khăn nhất định trong quá trình thực hiện thủ tục phá sản. Những khó khăn đó bao gồm:

  • Doanh nghiệp phá sản có thể yêu cầu thương lượng trực tiếp với các chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (chủ nợ nộp đơn yêu cầu). Thời gian thương lượng không quá 20 ngày.
  • Doanh nghiệp phá sản có thể từ chối cung cấp các tài liệu và thông tin cần thiết  cho việc thực hiện thủ tục phá sản. Ví dụ, doanh nghiệp phá sản có thể từ chối cung cấp các tài liệu cần thiết để chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho tòa án hoặc thực hiện kiểm kê tài sản doanh nghiệp. Luật Phá Sản 2014 không quy định thủ tục cụ thể yêu cầu doanh nghiệp phá sản phải có trách nhiệm cung cấp tài liệu và thông tin cần thiết.
  • Doanh nghiệp phá sản có thể từ chối tham gia hội nghị chủ nợ. Luật Phá Sản 2014 không quy định doanh nghiệp phá sản phải tham gia hội nghị chủ nợ. Vì vậy, sự tham gia của doanh nghiệp phá sản không cản trợ hội nghị chủ nợ diễn ra.
  • Doanh nghiệp phá sản được phép tiếp tục hoạt động kinh doanh dưới sự giám sát củaQuản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản và tuân thủ một số hạn chế nhất định.Điều này cho thấy rằng việc giám sát của các chủ thể trên có thể bảo đảm lợi ích của các chủ nợ.
  • Không có sự ưu tiên về quyền lợi giữa khoản nợ của cổ đông với khoản nợ của các chủ nợ trong doanh nghiệp phá sản. Do đó, có rủi ro là cổ đông của doanh nghiệp phá sản sẽ có quan điểm khác với các chủ nợ khác và gây trở ngại cho thủ tục phá sản.
  • Doanh nghiệp phá sản có thể khiếu nại quyết định tại Hội nghị chủ nợ. 

HIỆU LỰC CỦA CHỨNG TỪ ĐIỆN TỬ DẠNG PDF HOẶC DẠNG FAX

Theo Luật giao dịch điện tử 2005, chứng từ điện tử dạng pdf hoặc fax  có thểcó giá trị pháp lý như văn bản và bản gốc nếu thỏa mãn một số điều kiện cụ thể . Bởi:

  • Theo Luật giao dịch dữ liệu điện tử 2005, thông điệp dữ liệu được định nghĩa là “thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử”. Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức thư điện tử, fax và các hình thức tương tự khác. Định nghĩa và mô tả của thông điệp dữ liệu bao gồm cả chứng từ điện tử dạng pdf và fax;
  • Thông điệp dữ liệu có thể có giá trị như văn bản nếu thông tin chứa trong thông điệp dữ liệu có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết. Luật giao dịch điện tử không nêu rõ đối tượng nào truy cập và sử dụng thông điệp dữ liệu thì thông điệp dữ liệu đó sẽ đủ điều kiện để được xem là có giá trị như văn bản. Nếu một khách hàng gửi chỉ dẫn bằng điện tử hoặc fax tới ngân hàng, nhiều khả năng ngân hàng đó sẽ có hệ thống lưu trữ các chỉ dẫn điện tử và fax này để sử dụng và tham chiếu trong tương lai. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào khách hàng cũng lưu trữ các chỉ dẫn điện tử hoặc fax; và
  • Theo Luật giao dịch điện tử 2005, thông điệp dữ liệu có giá trị như bản gốc nếu (1) nội dung của thông điệp dữ liệu có thể truy cập và sử dụng dưới dạng hoàn chỉnh khi cần thiết; và (2) nội dung của thông điệp dữ liệu được toàn vẹn kể từ khi được khởi tạo lần đầu tiên dưới dạng một thông điệp dữ liệu hoàn chỉnh. Thông điệp dữ liệu được xem là toàn vẹn khi nội dung đó chưa bị thay đổi, trừ những thay đổi về hình thức phát sinh trong quá trình gửi, lưu trữ hoặc hiển thị thông điệp dữ liệu. Theo đó, để sử dụng chứng từ điện tử hoặc fax như một văn bản gốc, các bên liên quan phải chứng minh được chứng từ điện tử hoặc fax đó chưa bị sửa đổi trong quá trình truyền phát từ hệ thống của bên này sang hệ thống của bên kia. Rất khó để chứng minh được việc này nếu không có một cơ chế cụ thể giữa các bên nhằm xác thực lại  nội dung của chứng từ điện tử dạng pdf hoặc fax được gửi đến so với nội dung trong chứng từ điện tử được gửi đi. 

CẬP NHẬT CÁC QUY ĐỊNH VỀ THOÁI VỐN NHÀ NƯỚC TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM CÓ VỐN NHÀ NƯỚC

Trong Quyết định 58/2016, Thủ tướng chính phủ đã “thúc” thoái vốn nhà nước tại nhiều doanh nghiệp nhà nước (SOEs) trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhìn chung, Quyết định 58/2016 đã  giảm mạnh các ngành mà Nhà nước nắm quyền sở hữu ở mức tối thiểu và quan trọng hơn, công bố danh mục 240 SOEs mà Nhà nước sẽ thoái vốn trong giai đoạn 2016 – 2020. So với Quyết định 37/2014, hiện tại Nhà nước có thể:

  • Bán toàn bộ phần vốn góp của mình trong SOEs hoạt động trong các lĩnh vực (1) Vệ sinh môi trường, thoát nước đô thị hoặc chiếu sáng đô thị; (2) khai thác, sản xuất và cung cấp nước sạch; (3) thăm dò tài nguyên thiên nhiên; (4) sản xuất giống cây trồng hoặc vắcxin; (5) vận chuyển quốc tế và (6) vận tải đường sắt. Trước đó, Nhà nước chỉ có thể bán xuống còn 50% vốn điều lệ của SOEs hoạt động trong các lĩnh vực trên. 
  • Bán xuống còn 50% vốn điều lệ của SOEs hoạt động trong các lĩnh vực (1) sản xuất hóa chất; (2) vận chuyển hàng không; (3) sản xuất thuốc lá điếu, (4) dịch vụ viễn thông, (5) SOEs chiếm thị phần từ 30% trở lên hoạt động trong các lĩnh vực bán buôn gạo, đầu mối nhập khẩu xăng dầu, và (6) kinh doanh bán lẻ điện. Trước đó, Nhà nước chỉ có thể bán xuống còn 65% vốn điều lệ của SOEs hoạt động trong các lĩnh vực trên.
  • Chỉ nắm 100% vốn điều lệ trong SOEs hoạt động trong những lĩnh vực hạ tầng đường sắt mà Nhà nước đầu tư. Quy định này cho thấy đầu tư tư nhân trong ngành hạ tầng đường sắt đang được khuyến khích.
  • Bán lên tới 35% vốn sở hữu trong Vinacomin (Tập đoàn công nghiệp than – khoáng sản Việt Nam), Tổng công ty thăm dò khai thác dầu khí,  và Agribank (ngân hàng có mạng lưới lớn nhất ở Việt Nam).
  • Bán lên tới 50% vốn sở hữu trong Vinachem (nhà sản xuất hóa chất và phân bón lớn nhất Việt Nam), Vinataba (nhà sản xuất thuốc lá lớn nhất Việt Nam), Mobifone và VNPT (nhà cung cấp dịch vụ viễn thông lớn thứ hai và thứ ba), và Vinacafe (nhà sản xuất cà phê lớn).
  • Bán toàn bộ vốn sở hữu trong Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam, Hapro (tổng công ty bán lẻ và thương mại tại Hà Nội), Satra (tổng công ty bán lẻ và thương mại tại thành phố Hồ Chí Minh), ba công ty phát điện lớn của ngành điện Việt Nam, Vinashin, Vincem (nhà sản xuất xi măng), PVOIL (nhà phân phối và nhập khẩu dầu), nhà máy lọc dầu Dung Quất (nhà máy lọc dầu đầu tiên và lớn nhất tại Việt Nam), VTVCab (nhà cung cấp dịch vụ cáp truyền hình có vốn nhà nước), Tổng công ty Sông Đà và Tổng công ty đầu tư phát triển nhà và đô thị (HUD).

Một phần của bài viết này được đóng góp bởi Trần Trọng Linh, thực tập sinh luật tại Venture North Law.

 

 

QUY ĐỊNH KHẮT KHE HƠN VỀ CẤP BẢO LÃNH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM

Theo Nghị định 4/2017, Chính phủ Việt Nam đã ban hành những quy định khắt khe hơn đối với việc cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ. Bảo lãnh Chính phủ theo Nghị định 4/2017 là bảo lãnh nhân danh Chính phủ Việt Nam (người bảo lãnh) cấp cho bên cho vay nước ngoài để bảo đảm khoản vay hoặc khoản phát hành trái phiếu được vay hoặc được cấp bởi các công ty ở Việt Nam. Theo đó:

  • Người vay (doanh nghiệp) phải đảm bảo hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu không vượt quá 3 lần theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán năm gần nhất với thời điểm thẩm định cấp bảo lãnh chính phủ.
  • Nhóm cổ đông/thành viên sở hữu 65% vốn đầu tư của người vay phải đảm bảo nghĩa vụ trả nợ thay trong trường hợp người vay được bảo lãnh gặp khó khăn trong việc trả nợ. Một điểm rất thú vị ở Nghị định 4/2017 là hiện nay Chính phủ có thể bảo lãnh 100% khoản vay của người vay là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trước đây, Chính phủ chỉ có thể bảo lãnh một phần của khoản vay theo tỷ lệ số cổ phần Việt Nam trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
  • Chính phủ hiện tại chỉ có thể bảo lãnh tối đa lên đến 50% trên tổng số khoản nợ của dự án (trước đây là 80%). Khoản nợ được bảo đảm có thể tăng lên 70% đối với các dự án quan trọng hoặc khẩn cấp.
  • Trong nhiều dự án, nhà đầu tư phải mua bảo hiểm thanh toán nghĩa vụ thanh toán trả nợ trong trường hợp doanh nghiệp không có đủ nguồn tiền trả nợ. Tuy nhiên, không rõ liệu loại bảo hiểm này có áp dụng cho toàn bộ các khoản vay của nhà đầu tư hay chỉ áp dụng với khoản vay bảo lãnh chính phủ.
  • Phí bảo lãnh tăng từ 1.5% đến 2% trên số dư nợ được bảo lãnh.
  • Một ngân hàng đạt chuẩn phải được chỉ định như ngân hàng phục vụ để hỗ trợ và giám sát việc thực hiện dự án vay vốn được Chính phủ bảo lãnh và quản lý Tài khoản dự án.