XÁC ĐỊNH THỜI HẠN HẠN HỢP ĐỒNG THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2015

Thông thường, một hợp đồng sẽ quy định một điều khoản xác định thời hạn có hiệu lực của hợp đồng đó. Trong điều khoản đó, những thời điểm hợp đồng có hiệu lực và chấm dứt hiệu lực được xác định, cho dù bằng một khoảng thời gian hoặc sự kiện nhất định. Tuy nhiên, Bộ Luật Dân Sự 2015 không có bất kỳ quy định nào về “thời hạn” của các hợp đồng. Thay vào đó, Bộ Luật Dân Sự 2015 có các quy định riêng cho (i) thời hạn và (ii) thời điểm hợp đồng có hiệu lực và các trường hợp chấm dứt hợp đồng.

Theo Bộ Luật Dân Sự 2015, theo mặc định, việc bắt đầu một thời hạn bằng cách tham chiếu đến một sự kiện sẽ bắt đầu vào ngày ngay sau ngày diễn ra sự kiện đó chứ không phải là ngày diễn ra sự kiện. Do đó, nếu thời hạn của hợp đồng được xác định là bắt đầu vào ngày ký, hợp đồng thực tế sẽ có hiệu lực vào ngày hôm sau, điều có thể không phải là dự tính của các bên. Vì thế, một hợp đồng có thể có hiệu lực vào ngày ký nếu (1) được pháp luật quy định như vậy hoặc (2) các bên đồng ý về một phương pháp khác để tính thời hạn.

THÔNG TƯ MỚI VỀ VAY NGOẠI TỆ TỪ NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG NĂM 2019

Vào ngày 28 tháng 12 năm 2018, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư 42 sửa đổi các quy định về cho vay ngoại tệ hiện hành (tại Thông tư 24 của NHNN ngày 8 tháng 12 năm 2015, được sửa đổi tại từng thời điểm (Thông Tư 24/2015)) (Thông tư 42/2018). Thông Tư 42/2018 sẽ có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2019.

Thay đổi mục đích cho vay được phép

Các ngân hàng Việt Nam chỉ cho vay bằng ngoại tệ đối với một số mục đích nhất định. Thông Tư 42/2018 có những thay đổi sau về các mục đích này:

1. Về việc bên vay có doanh thu ngoại tệ từ xuất khẩu, Thông Tư 42/2018 không quy định thời hạn áp dụng các điều khoản liên quan đến mục đích vay vốn ngắn hạn để thực hiện kế hoạch sản xuất và kinh doanh hàng hóa được xuất khẩu qua cửa khẩu biên giới Việt Nam. Các thông tư sửa đổi Thông Tư 24/2015 trước đây chỉ cho phép mục đích vay như vậy trên cơ sở từng năm;

THỜI GIAN TỔ CHỨC LẠI CUỘC HỌP HĐQT TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM

Theo Điều 153 của Luật Doanh Nghiệp 2014, Chủ tịch Hội đồng quản trị (Chủ Tịch HĐQT) phải triệu tập cuộc họp của HĐQT trong vòng 7 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tổ chức họp bất thường. Trong trường hợp cuộc họp đầu tiên không có đủ từ ba phần tư tổng số thành viên HĐQT trở lên, cuộc họp thứ hai phải được triệu tập trong vòng bảy ngày kể từ ngày dự kiến tổ chức cuộc họp đầu tiên trừ trường hợp điều lệ công ty quy định một thời hạn ngắn hơn. 

Theo các quy định trên, có thể xảy ra tranh chấp về thời gian “triệu tập” của cuộc họp thứ hai. Một mặt có thể lập luận rằng cuộc họp thứ hai của HĐQT phải được tổ chức trong vòng 7 ngày hoặc một khoảng thời gian ngắn hơn được quy định trong điều lệ công ty.

NGHỊ ĐỊNH MỚI VỀ PHÁT HÀNH RIÊNG LẺ TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP CỦA CÁC CÁC CÔNG TY VIỆT NAM

Vào tháng 12 năm 2018, Chính Phủ đã ban hành Nghị Định 163/2018 để thay thế Nghị Định 90/2011 về việc phát hành riêng lẻ trái phiếu doanh nghiệp của các công ty Việt Nam từ tháng 2 năm 2019. Nghị Định 163/2018 đưa ra một số điểm mới quan trọng như sau:

· Để có thể phát hành trái phiếu, một công ty không còn cần phải có lãi trong năm trước khi dự kiến phát hành. Thay vào đó, công ty chỉ cần hoạt động ít nhất một năm và báo cáo tài chính của công ty được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán viên đủ điều kiện. Tổ chức phát hành đã trải qua việc tái cấu trúc nhất định (ví dụ: sáp nhập, chuyển đổi hoặc chia tách) có thể dựa vào lịch sử hoạt động của các công ty liên quan khác để đáp ứng điều kiện hoạt động một năm;

· Giao dịch thứ cấp của trái phiếu phát hành riêng lẻ bị giới hạn trong phạm vi tối đa 100 nhà đầu tư, ngoại trừ các “nhà đầu tư chuyên nghiệp”, trong vòng một năm kể từ ngày phát hành. Hạn chế mới dường như nhắm vào thực tiễn phát hành trái phiếu riêng lẻ ngay từ đầu và sau đó bán lại cho các nhà đầu tư công chúng trên thị trường thứ cấp;