Phát Triển Điện Gió Ngoài Khơi ở Việt Nam - Các Vấn Đề Pháp Lý liên quan đến việc Sử Dụng Khu Vực Biển

Việt Nam dường như có Tiềm Năng Lớn để phát triển điện gió ngoài khơi. Và gần đây, nhiều nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến việc phát triển các nhà máy điện gió ngoài khơi lớn tại Việt Nam. Tiếc rằng, ngoại trừ các quy định về phát triển dầu khí ngoài khơi theo Luật Dầu Khí, Việt Nam chưa có các quy định đầy đủ để phát triển một dự án cơ sở hạ tầng lớn ngoài khơi như các nhà máy điện gió ngoài khơi. Điều này bắt đầu từ khung pháp lý chưa đầy đủ về việc sử dụng khu vực biển theo Luật Biển Việt Nam 2012 và Nghị Định 11/2021. Cụ thể,

  • Luật Biển Việt Nam 2012 và Nghị định 11/2021 cho phép một số khu vực biển nhất định được giao để khai thác và sử dụng “tài nguyên biển”. Trong khi thuật ngữ “tài nguyên biển” không rõ ràng, thuật ngữ này dường như bao gồm cả việc phát triển nhà máy điện gió ngoài khơi. Nghị Định 11/2021 yêu cầu đơn vị phát triển dự án nhà máy điện gió ngoài khơi phải trả từ 3.000.000 đồng/ha/năm đến 7.500.000 đồng/ha/năm đối với khu vực biển được giao cho dự án. Tiền sử dụng khu vực biển được giao có thể là một số tiền đáng kể vì một nhà máy điện gió ngoài khơi có thể yêu cầu khu vực biển lớn không chỉ cho các tuabin gió và trạm biến áp nổi mà còn cả khu vực biển cho đường dây tải điện dưới biển và các khu vực/hành lang bảo vệ khác. Trong khi đó, khu vực biển được giao để phát triển dầu khí ngoài khơi được miễn nộp tiền sử dụng theo Nghị Định 11/2021.

Chuyển nhượng vốn góp trong các trường đại học tư thục chưa chuyển đổi

1. Luật Giáo dục đại học sửa đổi ngày 19 tháng 11 năm 2018 (Luật GDĐH Sửa Đổi 2018) quy định rất nhiều điểm mới so với Luật Giáo dục đại học ngày 18 tháng 6 năm 2012 (Luật GDĐH 2012). Một trong những điểm mới quan trọng là sự thay đổi về cơ cấu tổ chức hoạt động của các trường đại học tư thục. Theo đó, Luật GDĐH Sửa Đổi 2018 yêu cầu các trường đại học tư thục sẽ phải có hội đồng trường (tương tự như các trường đại học công lập) thay vì hội đồng quản trị như quy định trước đây của Luật GDĐH 2012.

2. Như vậy, các nhà đầu tư trong một trường đại học tư thục mà chưa được chuyển đổi cơ cấu tổ chức hoạt động theo Luật GDĐH Sửa Đổi 2018 (Trường ĐH Chưa Chuyển Đổi) [thì có được chuyển nhượng vốn góp của mình hay không và phải tuân theo thủ tục như thế nào.

Tệp máy tính có phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?

Tệp máy tính là nền tảng của nền kinh tế kỹ thuật số mà từ đó là nền tảng của nền kinh tế hiện đại. Có một số lập luận vững chắc để coi các tệp máy tính là tài sản và đáp ứng các điều kiện của “vật” (things). Tuy nhiên, trên thực tế, không rõ liệu tòa án và các cơ quan Chính Phủ khác có chấp nhận những lập luận như vậy hay không.

Điều 105 của Bộ Luật Dân Sự 2015 quy định tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Không có định nghĩa pháp lý về "vật". Tuy nhiên, có những lập luận vững chắc để cho rằng các tệp máy tính đáp ứng các điều kiện của vật như sau:

  • Theo Từ Điển Tiếng Việt, vật có nghĩa là những thứ có hình khối (shape) và có thể nhận biết (noticed). Do một người có thể xem một tệp máy tính bằng máy tính và phần mềm liên quan, nên có thể nói rằng một tệp máy tính có hình khối và có thể nhận biết.

  • Gần đây, nhiều cơ quan nhà nước có quan điểm rằng bitcoin có thể được coi là tài sản. Ví dụ, Viện kiểm sát Tối Cao đã truy tố một băng nhóm đã cướp bitcoin từ một doanh nhân với Tội Cướp Tài Sản theo Bộ Luật Hình Sự. Các cơ quan thuế cũng có quan điểm rằng Bitcoin Là Một Loại Hàng Hóa phải chịu thuế giá trị gia tăng. Bitcoin không phải là một tệp máy tính nhưng chúng có liên quan mật thiết với nhau. Vì vậy, quan điểm của các cơ quan nhà nước liên quan đến bitcoin có thể áp dụng cho các tệp máy tính.

Dự thảo Nghị Định Mới về Bảo Vệ Dữ Liệu Cá Nhân tại Việt Nam

Ngày 9 tháng 2 năm 2021, Bộ Công An đã ban hành dự thảo Nghị định về bảo vệ dữ liệu cá nhân (Dự Thảo Nghị Định). Nghị định này sau khi được ban hành sẽ là đạo luật toàn diện đầu tiên của Việt Nam về dữ liệu cá nhân. Blog này sẽ phân tích một số điểm chính của Dự Thảo Nghị Định và so sánh chúng với các điều khoản liên quan theo Quy Định Chung về Bảo Bệ Dữ Liệu (GDPR).[1] Bài viết do Nguyễn Thu Giang thực hiện và Nguyễn Quang Vũ biên tập.

1) Phạm vi áp dụng

a) Trong khi GDPR liệt kê các trường hợp không thuộc phạm vi điều chỉnh của GDPR, Dự Thảo Nghị Định có xu hướng điều chỉnh toàn diện mọi loại hoạt động liên quan đến dữ liệu cá nhân ở Việt Nam, cả về mặt nội dung và lãnh thổ.