Cấu trúc hợp đồng cho Quản lý cấp cao tại Việt Nam - Phần 1

Một hợp đồng lao động tốt cho một vị trí cấp cao, giống như bất kỳ hợp đồng lao động nào khác, là hợp đồng có thể cân bằng giữa nhu cầu của người sử dụng lao động và người lao động. Một nhân viên cấp cao thường tìm kiếm mức lương hấp dẫn, các ưu đãi, lợi ích, trong khi các vấn đề như không cạnh tranh và bảo mật là mối quan tâm chính của người sử dụng lao động. Mặt khác, cả hai bên có thể muốn một số điều tương tự trong hợp đồng lao động, ví dụ, hợp đồng dài hạn (thời hạn xác định hoặc không xác định), khả năng chấm dứt hợp đồng mà không cần lý do, bồi thường cho việc chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, v.v. .

Thật không may là luật lao động Việt Nam có một số hạn chế nhất định hạn chế các bên, đặc biệt là phía người sử dụng lao động trong việc xác lập một hợp đồng lao động có thể phản ánh chính xác nhu cầu thương mại của mình. Điều này là do Bộ Luật Lao Động 2012 được soạn thảo theo hướng có lợi cho phía người lao động do quan điểm của Nhà nước cho rằng người lao động là bên yếu thế hơn trong mối quan hệ lao động.

Quy định áp dụng với Chủ tịch Hội đồng quản trị có lợi ích liên quan trong một công ty ở Việt Nam

Để kiểm soát các hợp đồng ký giữa một công ty cổ phần Việt Nam (CTCP) với những người có liên quan của công ty, Luật Doanh Nghiệp 2014 yêu cầu một hợp đồng như vậy phải được Hội Đồng Quản Trị hoặc Đại Hội Đồng Cổ Đông của CTCP chấp thuận. Nếu hợp đồng với người có liên quan phải được Hội Đồng Quản Trị chấp thuận, quy định của pháp luật cấm thành viên Hội Đồng Quản Trị có lợi ích liên quan biểu quyết đối với việc chấp thuận hợp đồng đó. Tuy nhiên, nếu Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị là thành viên Hội Đồng Quản Trị có lợi ích liên quan, pháp luật không quy định rõ ràng rằng liệu Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị có được tham gia vào các công đoạn khác trong quá trình chấp thuận hợp đồng với người có liên quan hay không. Các công đoạn khác bao gồm chuẩn bị dự thảo nghị quyết của Hội Đồng Quản Trị, triệu tập và chủ tọa cuộc họp Hội Đồng Quản Trị để xem xét hợp đồng. Các bước này có thể là chìa khóa để quyết định liệu hợp đồng với người có liên quan có thể được phê duyệt hay không.

Phân loại ngành nghề kinh doanh theo VSIC và CPC Tạm Thời

Theo các biểu mẫu hiện hành áp dụng cho các thủ tục đầu tư để xin cấp Giấy Chứng Nhận Đăng Ký Đầu Tư hoặc đăng ký mua lại cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài và công ty mục tiêu phải kê khai ngành nghề kinh doanh của công ty mục tiêu theo cả Hệ Thống Phân Loại Ngành Kinh Tế Việt Nam (VSIC) và Hệ Thống Phân Loại Sản Phẩm Trung Tâm Tạm Thời (CPC Tạm Thời). VSIC dựa trên Hệ Thống Phân Loại Ngành Kinh Tế Quốc Tế, không phải CPC Tạm Thời. Do đó, có thể có một số khác biệt giữa phạm vi của các dịch vụ theo VSIC và theo CPC Tạm Thời. Nói cách khác, khi đăng ký ngành nghề kinh doanh, nhà đầu tư nước ngoài có thể phải đối mặt với vấn đề trong đó phạm vi của một nhóm theo một hệ thống phân loại có thể không nằm trong nhóm tương ứng theo hệ thống phân loại khác.

Trong những trường hợp như vậy, sẽ là hợp lý để các nhà đầu tư nước ngoài quyết định chỉ tuân thủ theo một hệ thống phân loại. Ví dụ, một nhà đầu tư Nhật Bản cung cấp dịch vụ sửa chữa thiết bị chiếu sáng điện có thể phân loại ngành nghề của họ thành (i) “Sửa chữa thiết bị điện” (VSIC 3314); và (ii) “Dịch vụ sửa chữa đồ cá nhân và hộ gia đình” (CPC 6330). Nếu nhà đầu tư muốn tiếp tục cung cấp dịch vụ sửa chữa máy móc thiết bị điện, thì nhà đầu tư đó không cần phải đăng ký bổ sung ngành nghề kinh doanh. Điều này là do:

Quyền Sử Dụng Đất Có Được Coi Là Bất Động Sản Theo Pháp Luật Việt Nam?

Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, có khả năng “quyền sử dụng đất” được coi là “bất động sản”. Các luận điểm sau đây hỗ trợ quan điểm cho rằng quyền sử dụng đất là bất động sản theo pháp luật Việt Nam:

·         Quyền sử dụng đất (QSDĐ) là quyền tài sản, cũng chính là tài sản. Tài sản được chia thành động sản và bất động sản. Các bất động sản được xác định bao gồm: (i) Đất; (ii) Nhà và công trình xây dựng gắn liền với đất; (iii) Các tài sản khác gắn liền với đất, nhà hoặc công trình xây dựng; và (iv) các tài sản khác theo quy định của pháp luật.  

·         Về mục (iv) nêu trên, QSDĐ được quy định theo Điều 5.4 của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2014 dưới dạng “bất động sản đưa vào kinh doanh”. Quan điểm này cũng được Tiến sĩ Đỗ Văn Đại áp dụng trong cuốn sách về Bộ Luật Dân Sự 2015.

·         Về mục (iii), Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn coi QSDĐ là bất động sản vì chúng là “tài sản gắn liền với đất”.

·         Tại Án Lệ 26/2018, Tòa Án Tối Cao đã áp dụng thời hiệu 30 năm đối với yêu cầu chia thừa kế bất động sản trong tranh chấp bao gồm QSDĐ. Có thể cho rằng, Tòa Án Tối Cao đã đưa ra quan điểm rằng QSDĐ là bất động sản.

Các luận điểm sau đây hỗ trợ quan điểm cho rằng quyền sử dụng đất không phải là bất động sản theo pháp luật Việt Nam:

·         Dựa trên sự thay đổi về câu chữ của Điều 5.4 của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2014 so với Điều 6.1(b) của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2006, không còn rõ liệu QSDĐ có phải là bất động sản đưa vào kinh doanh hay không. Câu chữ của Điều 5.4 của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2014 có thể được hiểu là: đất (mà có quyền sử dụng được phép chuyển nhượng, cho thuê hoặc cho thuê lại theo luật đất đai) là bất động sản đưa vào kinh doanh, và QSDĐ của mảnh đất đó có thể giao dịch trực tiếp.