Luật Doanh Nghiệp 2020 Mới Áp Dụng Cho Các Công Ty Tại Việt Nam

Giới thiệu

Vào tháng 6 năm 2020, Quốc Hội đã thông qua Luật Doanh Nghiệp 2020 mới (Luật Doanh Nghiệp 2020) để thay thế Luật Doanh Nghiệp 2014 kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2021. Luật Doanh Nghiệp 2020 được ban hành chỉ sau bốn năm kể từ ngày Luật Doanh Nghiệp 2014 có hiệu lực. Do vậy, chỉ trong vòng 20 năm, Việt Nam đã có 4 phiên bản khác nhau của Luật Doanh Nghiệp. Các thay đổi thường xuyên đó có thể gây ra nhiều thắc mắc cho nhà đầu tư bởi họ sẽ không biết chắc rằng các quyền của họ với tư cách là một thành viên hoặc một cổ đông trong một công ty tại Việt Nam sẽ không bị ảnh hưởng tiêu cực bởi một chuỗi các thay đổi nào khác vào năm 2025. Trên thực tế, rất nhiều thay đổi được đưa ra trong Luật Doanh Nghiệp 2020 chỉ là các thay đổi về mặt câu chữ (nhưng lại không giải quyếtnhiều vấn đề không rõ ràng của Luật Doanh Nghiệp 2014) cũng gây ra những hoài nghi về chất lượng của quy trình lập pháp tại Việt Nam.

Bài viết được thực hiện bởi Nguyễn Quang Vũ. Các bình luận của chúng tôi được dựa trên phiên bản Luật Doanh Nghiệp 2020 được cung cấp bởi Ông Trương Trọng Nghĩa, một đại biểu Quốc Hội và thành viên Hội Luật Sư Thương Mại Việt Nam (VBLC). Do phiên bản chính thức của Luật Doanh Nghiệp 2020 chưa được ban hành, các bình luận của chúng tôi có thể bị thay đổi. Để tiện tham chiếu, một bản so sánh giữa Luật Doanh Nghiệp 2020 và Luật Doanh Nghiệp 2014 bằng tiếng Việt có thể được tải về tại Đây.

Đồng Chủ Tịch Trong Một Công Ty Cổ Phần (CTCP) Có Được Cho Phép Theo Pháp Luật Việt Nam?

Theo pháp luật Việt Nam, việc đồng chủ tịch trong một CTCP là không được phép vì vị trí Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị (HĐQT) chỉ được nắm giữ bởi một người:

· Điều 152 của Luật Doanh Nghiệp 2014 quy định rõ ràng rằng HĐQT sẽ bầu một thành viên của HĐQT làm Chủ Tịch, không có ngoại lệ nào có thể được quy định trong điều lệ;

· Các tiêu chuẩn khác nhau của thành viên HĐQT theo Luật Doanh Nghiệp 2014 chỉ ra rằng các thành viên HĐQT cũng như Chủ Tịch HĐQT phải là người tự nhiên (đó là: có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh của công ty). Một đồng chủ tịch không phải là một người tự nhiên như vậy.

Tuy nhiên, có một cơ chế tiềm năng để thiết lập việc đồng chủ tịch. Cụ thể, có thể sửa đổi điều lệ của CTCP để:

· tạo ra một vị trí khác với các quyền giống như của Chủ Tịch (ví dụ: Phó Chủ Tịch);

· yêu cầu rằng Chủ Tịch chỉ được ra các quyết định nếu được Phó Chủ Tịch đồng ý; và

· yêu cầu một số văn bản nhất định phải có chữ ký của cả Chủ Tịch và Phó Chủ Tịch.

Pháp luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài trong trường hợp không được lựa chọn rõ ràng tại Việt Nam

Theo pháp luật Việt Nam, trong trường hợp hợp đồng giữa một bên Việt Nam và một bên nước ngoài (i) lựa chọn pháp luật Việt Nam là pháp luật điều chỉnh cho toàn bộ hợp đồng, (ii) lựa chọn trọng tài nước ngoài làm cơ chế giải quyết tranh chấp, nhưng (iii) không quy định rõ pháp luật điều chỉnh của thỏa thuận trọng tài, có khả năng pháp luật của nước là địa điểm giải quyết tranh chấp (không phải pháp luật Việt Nam) sẽ là pháp luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài đó. Điều này là bởi:

· Tương tự như nguyên tắc về tính độc lập của điều khoản trọng tài đối với hợp đồng chính được chấp nhận rộng rãi trong thông lệ của trọng tài thương mại quốc tế, Luật Trọng Tài Thương Mại 2010 cũng quy định rằng thỏa thuận trọng tài “hoàn toàn độc lập” với hợp đồng chính. Theo đó, pháp luật điều chỉnh hợp đồng chính không nên được mặc định là pháp luật điều chỉnh của thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, Luật Trọng Tài Thương Mại 2010 không xác định rõ pháp luật nào sẽ là pháp luật điều chỉnh đối với thỏa thuận trọng tài trong trường hợp nói ở phần đầu. Điều này khác với Quan Điểm của hệ thống pháp luật thông luật mà theo đó pháp luật điều chỉnh hợp đồng sẽ là pháp luật điều chỉnh của thỏa thuận trọng tài trừ trường hợp có chứng cứ cho điều ngược lại; và

Tiêu Chí Mới Của Thỏa Thuận Hạn Chế Cạnh Tranh Tại Việt Nam Theo Luật Cạnh Tranh 2018

Luật Cạnh Tranh 2018 định nghĩa một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là: (a) hành vi thỏa thuận giữa các bên dưới mọi hình thức, và (b) gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh. Theo Điều 3.3 của Luật Cạnh Tranh 2018, tác động hạn chế cạnh tranh là tác động loại trừ, làm giảm, sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường. Định nghĩa thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là một điều khoản mới của Luật Cạnh Tranh 2018 mà Luật Cạnh Tranh 2004 không quy định.

Luật Cạnh Tranh 2018 tiếp tục cung cấp một danh sách các thỏa thuận cụ thể có thể được coi là một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giống với Luật Cạnh Tranh 2004. Tuy nhiên, do có định nghĩa mới theo Luật Cạnh Tranh 2018, xét một cách hợp lý, một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hiện cần phải thỏa mãn hai yếu tố: