Tái cấu trúc nội bộ và thông báo tập trung kinh tế tại Việt Nam

Luật Cạnh Tranh 2018 không miễn trừ yêu cầu thông báo tập trung kinh tế thực hiện tái cấu trúc nội trong một nhóm các công ty. Tuy vậy, có thể nhận định rằng, tái cấu trúc nội bộ giữa các công ty dưới quyền kiểm soát của một công ty mẹ không thuộc trường hợp phải thực hiện thông báo tập trung kinh tế tại Việt Nam. Bởi vì:

· Theo luật cạnh tranh, thị phần của một công ty được xác định thông qua thị phần của nhóm công ty mà công ty là thành viên (Nhóm). Do đó, việc tái cấu trúc nội bộ trong nhóm công ty không làm ảnh hưởng đến thị phần của Nhóm, và theo đó không tạo ra bất kì tác động hạn chế cạnh tranh nào trên thị trường. Theo Khoản 1 của Luật Cạnh Tranh 2018, quy định về phạm vi điều chỉnh của Luật Cạnh Tranh 2018, có thể lập luận rằng việc giao dịch tái cấu trúc nội bộ không được điều chỉnh bởi Luật Cạnh Tranh 2018.

Nghị Định 35/2020 - Ngưỡng thông báo tập trung kinh tế tại Việt Nam

Trong đợt bùng phát Covid-19, Chính phủ Việt Nam đã ban hành một nghị định quan trọng để thi hành Luật Cạnh Tranh 2018. Trong nhiều nội dung mới, Chính Phủ đã đưa ra một bộ ngưỡng thông báo tập trung kinh tế (gần như) mới hoàn toàn. Đáng tiếc là, giống như các biện pháp giãn cách xã hội được áp dụng trong thời gian Covid-19, ngưỡng thông báo tập trung kinh tế có khả năng nới rộng khoảng cách pháp lý giữa các bên tham gia các thỏa thuận M&A tại Việt Nam, đặc biệt là các giao dịch do các tập đoàn lớn thực hiện.

Theo Luật Cạnh Tranh 2004 cũ, Chính phủ chỉ áp dụng ngưỡng "thị phần” để xác định xem việc thông báo tập trung kinh tế có cần thực hiện hay không. Do sự không rõ ràng và khó khăn trong việc xác định thị phần trong thực tế, chỉ có một vài thỏa thuận M&A phải nộp đơn thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh Tranh 2004 cũ. Bây giờ, điều đó không còn đúng nữa. Ngoài ngưỡng thị phần cũ, Nghị định 35/2020 còn đưa ra hai ngưỡng mới (ví dụ: ngưỡng "giá trị chủ thể" và ngưỡng “giá trị giao dịch”) mà không có ngoại lệ. Bất kỳ “tập trung kinh tế” nào thỏa mãn bất kỳ một trong ba ngưỡng riêng biệt và độc lập sẽ cần phải được thông báo tới Ủy Ban Cạnh Tranh Quốc Gia (NCC) chưa được thành lập. Có thể nói NCC hiện có lẽ có nhiều ngưỡng thông báo tập trung kinh tế hơn so với các cơ quan cạnh tranh ở EU (một), Mỹ (hai) và Trung Quốc (một), đấy là một dấu hiệu không tốt cho luật sư M&A tại Việt Nam.

Quan điểm của Tòa Án Nhân Dân Tối Cao Việt Nam về các khoản vay vượt quá phạm vi đại diện của doanh nghiệp

Vào tháng 9 năm 2019, Tòa Án Nhân Dân Tối Cao đã đưa ra một Quan Điểm quan trọng tới các tòa án cấp dưới về cách giải quyết một thỏa thuận cho vay của bên vay không có những chấp thuận nội bộ doanh nghiệp phù hợp. Quan điểm liên quan đến bên vay là một công ty trách nhiệm hữu hạn đã không được Hội Đồng Thành Viên chấp thuận cho khoản vay ngân hàng. Tuy nhiên, quan điểm trên nhìn chung có thể được áp dụng cho cả bên vay là các công ty cổ phần. Quan điểm của Tòa Án không phải là luật. Nhưng nó vẫn có thể giúp bên cho vay trong việc bảo vệ các khoản cho vay của họ trong trường hợp bên vay là doanh nghiệp muốn thoát khỏi các khoản vay trên cơ sở các khoản vay đó không có các chấp thuận nội bộ doanh nghiệp phù hợp.

Đối với khoản vay được ký bởi người đại diện theo pháp luật của công ty nhưng chưa được cơ quan có liên quan của công ty chấp thuận (một khoản vay vượt quá phạm vi đại diện), nói chung, tòa án vẫn nên coi công ty là bên vay và bị ràng buộc bởi hợp đồng cho vay nếu:

Miễn Trừ Chào Mua Công Khai Theo Luật Chứng Khoán 2019

Theo Luật Chứng Khoán 2019, liên quan đến một công ty cổ phần đại chúng (công ty mục tiêu), những chủ thể rơi vào các trường hợp phải chào mua công khai không phải thực hiện chào mua công khai trong một số trường hợp nhất định. Cụ thể:

· Trường Hợp 1: Mua cổ phiếu mới phát hành, dẫn đến quyền sở hữu đạt đến giới hạn bắt buộc chào mua công khai, theo phương án phát hành đã được Đại Hội Đồng Cổ Đông của công ty mục tiêu thông qua.

· Trường Hợp 2: Nhận chuyển nhượng cổ phiếu có quyền biểu quyết, dẫn đến quyền sở hữu đạt đến giới hạn bắt buộc chào mua công khai, như đã được thông qua bởi Đại Hội Đồng Cổ Đông của công ty mục tiêu. Trong trường hợp này, Đại Hội Đồng Cổ Đông phải xác định rõ đối tượng chuyển nhượng và đối tượng nhận chuyển nhượng.