Khái niệm về người lao động, hợp đồng lao động và người làm việc không có quan hệ lao động theo pháp luật lao động Việt Nam

Bộ Luật Lao Động 2019 đã mở rộng đáng kể phạm vi áp dụng bằng cách mở rộng định nghĩa về người lao động, hợp đồng lao động và đưa ra khái niệm mới về người làm việc không có quan hệ lao động. Những thay đổi này có thể có tác động đáng kể đến nhiều cá nhân, bao gồm cả những người lao động tự do (gig workers). [a1]

Người lao động

Theo Bộ Luật Lao Động 2019, người lao động là người làm việc cho người sử dụng lao động theo một thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành và giám sát của người sử dụng lao động. Mặt khác, Bộ Luật Lao Động 2012 định nghĩa người lao động là người làm việc theo “hợp đồng lao động”. Do đó, theo Bộ Luật Lao Động 2012, một cá nhân làm việc cho công ty theo hợp đồng không có tên là “hợp đồng lao động” có thể lập luận rằng mình không phải là người lao động của công ty. Tuy nhiên, lập luận như vậy có thể không áp dụng được theo Bộ Luật Lao Động 2019 nếu có thể xác định được rằng có sự thỏa thuận giữa công ty và cá nhân và cá nhân đó bị công ty quản lý, điều hành và giám sát.

Cấu trúc mới để vượt qua yêu cầu chào mua công khai theo pháp luật chứng khoán Việt Nam

Theo Luật Chứng Khoán 2019, một bên mua đề xuất (Bên Mua) muốn mua lại từ 25% trở lên tổng số cổ phần (Cổ Phần Bán) của một công ty đại chúng (Mục Tiêu) phải tuân thủ yêu cầu chào mua công khai (Xem Tại Đây). Tuy nhiên, dựa trên những Khả Năng Miễn Trừ Chào Mua Công Khai Mới mà pháp luật quy định, có thể có một khả năng không cần phải thực hiện các thủ tục chào mua công khai bằng cách sáp nhập bên mua và các chủ thể liên quan của bên bán như sau:

· Bước 1: Các cổ đông bán cổ phần (Bên Bán) thành lập một công ty phục vụ mục đích đặc biệt cho giao dịch mua bán này (SPV1) bằng cách góp tất cả Cổ Phần Bán vào SPV1. Bước này không kích hoạt yêu cầu chào mua công khai vì bước này là việc chuyển nhượng Cổ Phần Bán trong nội bộ nhóm công ty.

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH MUA BÁN NỢ

1. Hiện nay, hoạt động mua bán nợ của các chủ thể không phải tổ chức tín dụng (TCTD) không phải là ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Cụ thể, Luật Đầu Tư của Quốc Hội ngày 17 tháng 6 năm 2020 (Luật Đầu Tư 2020) đã loại bỏ ngành nghề “kinh doanh dịch vụ mua bán nợ” ra khỏi danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Theo thuyết minh của ban soạn thảo Luật Đầu Tư 2020 , chủ thể của giao dịch mua bán nợ có thể là bất kỳ chủ thể kinh doanh nào, dịch vụ mua bán nợ chỉ là dịch vụ hỗ trợ, thúc đẩy các giao dịch mua bán nợ và hệ thống pháp luật về dân sự, thương mại liên quan tới hoạt động mua bán hiện tại đã đủ cơ sở pháp lý để điều chỉnh giao dịch mua bán nợ cũng như các giao dịch hỗ trợ mua bán nợ (http://vibonline.com.vn/wp-content/uploads/2019/10/4._Thuyet_minh_du_thao_Luat.pdf).

Nghị Định mới về biện pháp bảo đảm ở Việt Nam

Ngày 19 tháng 3 năm 2021, Chính Phủ đã ban hành Nghị Định 21 hướng dẫn Bộ Luật Dân Sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (Nghị Định 21/2021). Nghị Định 21/2021 thay thế Nghị Định 163 của Chính Phủ ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm (Nghị Định 163/2006) từ ngày 15/5/2021.

Quyền tự do thỏa thuận của các bên

Nghị Định 21/2021 dường như cho phép các bên trong giao dịch bảo đảm thỏa thuận bất kỳ vấn đề gì liên quan đến giao dịch bảo đảm miễn là thỏa thuận đó tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Bộ Luật Dân Sự 2015, không vi phạm các điều kiện để giao dịch có hiệu lực, không vi phạm giới hạn thực hiện quyền dân sự theo quy định của Bộ Luật Dân Sự 2015 và các quy định khác của pháp luật có liên quan.