CHUYỂN NHƯỢNG CAM KẾT KHOẢN VAY GIỮA CÁC NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM

Quy định về ngân hàng của Việt Nam không có cơ chế rõ ràng về việc chuyển nhượng cam kết khoản vay giữa các ngân hàng và tổ chức tín dụng tại Việt Nam. Cụ thể là,

·         Theo Thông Tư 9/2015 của Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN) về mua, bán nợ, mua, bán nợ được định nghĩa là việc chuyển giao “quyền đòi nợ” phát sinh từ nghiệp vụ cho vay của ngân hàng (NH Gốc) cho bên mua nợ có thể là ngân hàng hoặc không phải là ngân hàng. Định nghĩa về nợ theo Thông Tư 09/2016 không bao gồm cam kết khoản vay khi một ngân hàng chỉ cam kết cho bên vay vay tiền nhưng chưa thực tế chưa giải ngân khoản vay. Vì vậy, mọi cơ chế mua bán nợ theo quy định của Thông Tư 9/2015 không được áp dụng trực tiếp cho việc chuyển nhượng cam kết khoản vay.

TIẾP NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT BẰNG HỢP ĐỒNG HỢP TÁC KINH DOANH TẠI VIỆT NAM

Tại Việt Nam, nếu một nhà đầu tư bất động sản (Nhà Đầu Tư) không thể Có Được Một Diện Tích Đất Thông Qua Các Phương Án Phổ Biến để thực hiện dự án đầu tư của mình, Nhà Đầu Tư có thể cân nhắc việc ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) với một người sử dụng đất trong nước. Theo cấu trúc của hợp đồng BCC, các bên không thành lập pháp nhân nhưng hợp tác với nhau sử dụng các nguồn lực sẵn có của mình (bao gồm cả quyền sử dụng đất) để thực hiện việc kinh doanh. Trong trường hợp này, bên có quyền sử dụng đất (Người Sử Dụng Đất) vẫn bảo lưu quyền đối với đất mà không chuyển nhượng cho Nhà Đầu Tư, tuy nhiên Nhà Đầu Tư có thể được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với tài sản gắn liền với đất (gọi chung là GCN quyền sở hữu). Có rủi ro là hợp đồng BCC có thể được xem hợp đồng cho thuê lại đất giữa người sử dụng đất và Nhà Đầu Tư. Tuy nhiên, cấu trúc hợp đồng BCC khá phổ biến trong thực tế và có cơ sở pháp lý nhất định cho cơ cấu này.

Các bước cơ bản để “có được” quyền sử dụng đất thông qua hợp đồng BCC như sau:

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA CÔNG TY TRONG TRƯỜNG HỢP MỘT GIAO DỊCH MUA BÁN SÁP NHẬP TẠI VIỆT NAM

Bộ luật hình sự 2015 (BLHS 2015) không quy định về việc liệu trách nhiệm hình sự công ty thực hiện bởi một pháp nhân thương mại sẽ được kế thừa hoặc hủy bỏ nếu pháp nhân đó giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, và ngừng hoạt động. Theo Bộ Luật Dân Sự 2015, khi một pháp nhân bị sáp nhập, hợp nhất hoặc chia thì chỉ có nghĩa vụ dân sự của pháp nhân đó được chuyển cho pháp nhân mới (hoặc kế thừa) liên quan. Như vậy, trách nhiệm hình sự của pháp nhân đó có thể không được cho pháp nhân mới (hoặc kế thừa). Tương tự, theo Luật Doanh Nghiệp 2014, khi một doanh nghiệp bị sáp nhập, hợp nhất hoặc bị chia, chỉ có các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản được chuyển cho doanh nghiệp mới (hoặc kế thừa). Không rõ là liệu trách nhiệm hình của doanh nghiệp đầu tiên có thể đủ điều kiện để được coi là nghĩa vụ tài sản có thể được chuyển hoặc kế thừa bởi doanh nghiệp mới (hoặc kế thừa) hay không.

Theo quy định của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015, nếu một pháp nhân đã bị kết án về một tội phạm, thực hiện việc sáp nhập, chia tách, hợp nhất thì pháp nhân tiếp nhận các quyền và nghĩa vụ của pháp nhân đề cập ban đầu sẽ phải chịu trách nhiệm chấp hành các hình phạt bằng tiền. Quy định này dường như chỉ ra rằng không phải mọi trách nhiệm hình sự sẽ được sẽ được chuyển cho pháp nhân kế thừa. Mặc dù vậy, trong một Hội Thảo về trách nhiệm hình sự công ty, một cán bộ của Bộ Tư Pháp, là thành viên ban soạn thảo BLHS 2015 đã chỉ ra rằng cán bộ này ủng hộ quan điểm yêu cầu rằng trong trường hợp pháp nhân giải thể, sáp nhập, hợp nhất, hoặc bị chia, pháp nhân mới (hoặc kế thừa) phải thừa kế trách nhiệm hình sự của pháp nhân bị giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia.

NGHỊ ĐỊNH MỚI (NGHỊ ĐỊNH 81/2018) VỀ XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

Vào ngày 22 tháng 5 năm 2018, Chính Phủ đã ban hành Nghị Định 81/2018 về hoạt động xúc tiến thương mại. Nghị Định 81/2018 sẽ có hiệu lực từ ngày 15 tháng 7 năm 2018 và thay thế Nghị Định 37/2006. Nghị Định 81/2018 đưa ra nhiều quy định mới liên quan tới hoạt động xúc tiến. Cụ thể là,

·         Thương nhân không được xúc tiến hàng hóa của mình bằng cách so sánh trực tiếp với sản phẩm của thương nhân khác vì bất kỳ mục đích gì. Trước đó, việc xúc tiến bằng cách so sánh giữa các sản phẩm chỉ bị cấm nếu việc xúc tiến là nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, quy định này đã bị bãi bỏ theo Nghị Định 81/2018 do đó hạn chế về xúc tiến thông qua so sánh đã trở nên chặt chẽ hơn;

·         Hạn mức tối đa mới đối với các hoạt động xúc tiến thương mại liên quan đến chương trình khuyến mại tập trung. Trong trường hợp khuyến mại tập trung, giá trị tối đa của hàng hóa và dịch vụ được sử dụng cho việc xúc tiến và tỷ lệ giảm giá tối đa cho các hàng hóa và dịch vụ được xúc tiến có thể lên tới 100% giá trị của các hàng hóa và dịch vụ đó. Trước đây, mức giá trị tối đa của hàng hóa và dịch vụ được sử dụng cho việc xúc tiến và mức giảm giá tối đa trong mọi trường hợp chỉ có thể lên tới 50%;