“Tổn thất thực tế và trực tiếp” do vi phạm hợp đồng liệu có bao gồm các tổn thất bên bị vi phạm phải gánh chịu theo một hợp đồng khác với bên thứ ba không?

Theo Luật Thương Mại 2005, giá trị thiệt hại mà bên bị vi phạm có thể yêu cầu bồi thường do hành vi vi phạm hợp đồng sẽ bao gồm (i) giá trị “tổn thất thực tế, trực tiếp” mà bên bị vi phạm phải gánh chịu do bên vi phạm gây ra và (ii) “khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng” nếu không có hành vi vi phạm đó. Rõ ràng, khoản tiền mà bên bị vi phạm phải bồi thường cho bên thứ ba (ví dụ: khách hàng của bên bị vi phạm) do hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm (Thiệt Hại Với Bên Thứ Ba) sẽ không được coi là lợi nhuận bị mất theo điểm (ii). Tuy nhiên, không rõ liệu và bằng cách nào mà Thiệt Hại Với Bên Thứ Ba có thể được bao gồm trong “tổn thất thực tế và trực tiếp” (Tổn Thất Trực Tiếp) mà bên bị vi phạm phải gánh chịu.

Luật Thương Mại 2005 cũng không quy định chi tiết hơn về cách xác định Tổn Thất Trực Tiếp. Bộ Luật Dân Sự 2015 đưa ra một danh sách liệt kê các thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ/hợp đồng, mà có thể sử dụng để xác định loại tổn thất này, bao gồm:

Thủ tục mới để phối hợp, liên thông các bước bắt đầu hoạt động kinh doanh cho các Công Ty Việt Nam

Tháng 10 năm 2020, Chính Phủ ban hành Nghị Định 122/2020 quy định về phối hợp, liên thông các thủ tục riêng lẻ liên quan đến các bước bắt đầu hoạt động kinh doanh của một công ty tại Việt Nam bao gồm thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp, khai trình việc sử dụng lao động, cấp mã số đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội, và đăng ký sử dụng hóa đơn thuế của doanh nghiệp. Cụ thể,

  • Nghị Định 122/2020 quy định về hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp, trong đó bao gồm các thông tin cần thiết cho việc đăng ký thuế và hóa đơn, đăng ký bảo hiểm xã hội, và khai trình sử dụng lao động. Trước đây, hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp chỉ bao gồm kê khai thông tin doanh nghiệp và thông tin đăng ký thuế; và

  • Cơ Quan Đăng Ký Kinh Doanh sẽ là đầu mối tiếp nhận hồ sơ được nộp bởi các nhà sáng lập của công ty có liên quan và sẽ chuyển các thông tin cần thiết cho cơ quan thuế, cơ quan bảo hiểm xã hội và cơ quan lao động thông qua phương thức điện tử.

Quy định mới về thu giữ cổ phiếu và chứng khoán đã đăng ký tại Trung tâm Lưu ký Chứng khoán

Ngày 26/08/2010, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (VSD) ban hành Quyết Định 154/QD-VSD (Quyết Định 154/2020) cho phép bên cho vay nhận khoản thế chấp đối với cổ phiếu hoặc chứng khoán đã đăng ký tại VSD (Chứng Khoán Đại Chúng) được phép yêu cầu VSD chuyển giao Chứng Khoán Đại Chúng được cầm cố hoặc thế chấp cho một bên thứ ba do bên cho vay chỉ định, nếu hợp đồng thế chấp hoặc cầm cố cho phép bên cho vay làm vậy.

Trước đây, VSD chỉ chuyển giao Chứng Khoán Đại Chúng cho bên cho vay khi bên cho vay thực hiện việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố là Chứng Khoán Đại Chúng. Theo đó, các quy định cũ có thể gây khó khăn cho bên cho vay do bên cho vay phải tuân thủ các hạn chế về sở hữu trực tiếp các Chứng Khoán Đại Chúng có liên quan (ví dụ: giới hạn sở hữu hoặc các điều kiện đầu tư khác).

Tuy nhiên, các quy định sửa đổi, bổ sung tiếp tục bỏ ngỏ các vấn đề sau:

Những Điểm Cần Xem Xét Trong Điều Khoản Trọng Tài Đối Với Bên Việt Nam Trong Hợp Đồng Với Bên Nước Ngoài

Khi doanh nghiệp Việt Nam ký kết hợp đồng với một bên nước ngoài, bên nước ngoài thường yêu cầu hợp đồng phải có Điều khoản trọng tài để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bằng trọng tài thương mại thay vì Tòa án Việt Nam. Khi đàm phán và soạn thảo Điều khoản trọng tài trong hợp đồng, doanh nghiệp Việt Nam cần cân nhắc các điểm sau:

Luật điều chỉnh hợp đồng

Nếu luật điều chỉnh của hợp đồng là pháp luật Việt Nam, thì việc lựa chọn các trung tâm trọng tài tại Việt Nam sẽ phù hợp hơn bởi các trọng tài viên ở Việt Nam thường hiểu biết về pháp luật Việt Nam hơn trọng tài viên ở nước khác. Nếu luật điều chỉnh là pháp luật nước ngoài, thì bên Việt Nam có thể cân nhắc lựa chọn pháp luật của các hệ thống tài phán mà dễ tiếp cận từ Việt Nam. Theo tiêu chí này, pháp luật Anh sẽ thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam bởi nhiều sách luật tiếng Anh hiện đã có sẵn ở Việt Nam hoặc có thể mua từ các cửa hàng trực tuyến. Có nhiều nguồn thông tin miễn phí trên Internet về luật Anh hơn các luật khác. Ngoài ra, có thể dễ dàng tìm được các luật sư đủ điều kiện hành nghề theo tiêu chuẩn Anh tại Việt Nam hơn là tìm luật sư từ các hệ thống tài phán khác.